Monday, August 27, 2012

Xu Ơi...

XU ƠI…!!!
Chiều nay không phải nơi chốn quê nhà,
Không khói bếp, không có mùi rơm ướt,
Sao mắt ai cay, sao lòng thổn thức?
Như phút lìa quê, xa mái tranh nghèo.

Chị Ngâu ăn xong món bún thịt nướng chán chê thỏa thuê còn lại một ít thì không ăn nổi nữa. Chị đẩy những đĩa đồ ăn thừa sang một bên.
Nhà hàng này nổi tiếng với món bún chả Hà Nội của miền Bắc dù nhà hàng ở thành phố Sài Gòn miền Nam.
Chồng chị, anh Cheng vừa đứng lên đi về phía cuối nhà hàng tìm nhà vệ sinh, chỉ còn hai mẹ con chị trước mặt bàn với bát đĩa, và đồ ăn thừa ngổn ngang. Thằng Vàng của chị mới lên 4 tuổi chỉ nhâm nhi ăn mấy miếng thịt nướng với bún rồi quay ra uống nước ngọt, nhất định không ăn thêm miếng thịt nào nữa…
Chị cũng nâng ly nước ngọt và bâng quơ nhìn quanh, ánh mắt chị dừng lại nơi hình ảnh 2 người ăn xin ngay bàn khách bên cạnh bàn chị. Một thằng bé và một bà gìa đang túm áo nó như sợ bị bỏ rơi hay đi lạc mất nhau.
Thằng bé chìa tay xin tiền, thực khách bàn ấy có người móc túi dúi cho nó ít đồng, nhưng thằng bé chưa vội đi, nó nhanh chóng thu gom những đồ ăn thừa trên bàn và đổ vào trong một cái túi ni lông mang sẵn, rồi mới rời khỏi bàn…
Khi nó quay mặt ra, tim chị bỗng giật thót lên một cảm giác lạ lùng, hình như thằng bé có cái gì rất gần gũi, quen thuộc với chị? Và khi chị cố tìm cách nghiêng người nhìn bà già thì chị thất thần, chị như chợt lên cơn nhức đầu đến quay cuồng chóng mặt.
Họ đang đi về phía bàn của chị, chị Ngâu hồi hộp, bối rối chỉ sợ anh Cheng về tới, chị vội quay mặt đi hướng khác để 2 người ăn xin này đừng bén mảng đến bàn chị. Nhưng thằng bé đã đứng cạnh chị rồi, tiếng của nó cất lên, van vỉ cầu cạnh:
- Bác ơi, làm ơn làm phước cho cháu xin tiền nuôi bà cháu…
Không thể không quay mặt lại, chị rùng mình thảng thốt vì gương mặt thân quen của thằng bé, và bà gìa thì đang nhìn thẳng vào mặt chị bằng cái nhìn ngay đơ vô hồn. Chị vừa nhẹ lòng vì thoát nỗi lo ngại vừa thêm thảng thốt vì biết bà đã bị mù.
Chị nhanh chóng mở ví tiền rút ra một nắm không cần đếm bao nhiêu dúi ngay vào bàn tay bé nhỏ của thằng bé và run giọng hỏi :
- Cháu lên mấy?
Nhận được món tiền hậu hĩ, thằng bé vui mừng hấp tấp xếp lại những tờ giấy bạc và nhét vào túi quần, cẩn thận cài kim băng mà quên chưa trả lời câu hỏi của người khách sộp.
Bà gìa nãy giờ nghiêng tai lắng nghe và trả lời thay cho cháu:
- Cháu nó 8 tuổi..
Chị run run hỏi tiếp:
- Khổ ! mới có 8 tuổi đầu mà phải đi xin ăn, thế …cha mẹ nó đâu ?
Bà gìa lại nghiêng tai lắng nghe và có vẻ không hiểu gì, chị Ngâu tin chắc bà bị lãng tai hơn nữa nhà hàng lại ồn ào tiếng nói cười lẫn tiếng âm nhạc. Chị lập lại câu hỏi chậm rãi hơn, thì bà mới nghe ra:
- Mẹ cháu chết từ lúc nó lên 3 bác ạ, còn bố nó mới chết vì sốt rét rừng nên bà cháu tha nhau về đây…
- Nhà làm gì trên rừng hở bà?
- Đi kinh tế mới ở Lào Cai, được vài năm thì bố nó ngã bệnh sốt rét chết. Hai bà cháu một gìa một trẻ ranh chẳng làm lụng việc ruộng vườn được thì ở đấy làm gì, nhỡ vướng sốt rét lại khổ thôi…
Hình như có người hỏi để được dịp trút nỗi lòng, bà gìa kể lể tiếp:
- Về quê thì ruộng nương nhà cửa không còn, mà chỉ thêm buồn vì cảnh cũ người xưa, nên bà cháu quyết không bao giờ bén mảng về quê, mới vào Nam tha phương cầu thực như thế này..
Chị ái ngại hỏi:
- Hình như mắt bà kém lắm?
- Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa, mắt mờ, tai nghễnh ngãng từ lâu rồi, không có tiền đi bác sĩ khám mắt và thuốc thang, lại khóc nhiều vì thương con thương cháu nên tăm tối mù lòa luôn. Cũng đành cái số…
Trong lúc bà nó nói chuyện, thằng bé không bỏ phí thì giờ, nó vơ vét những thức ăn thừa đổ vào túi ni lông và gói ghém lại cẩn thận, sợ những thức ăn thơm ngon này sẽ rơi mất. Chỉ chớp mắt, những đĩa bát đã sạch trơn.
Xong nó kéo tay bà nó:
- Đi bà ơi, bàn bên kia có nhiều người lắm…
Chị Ngâu chưa biết nói sao, muốn níu chân thằng bé lại dù chị không biết phải làm gì hơn trong lúc này thì anh Cheng về đến, nhìn thấy nét mặt chị còn nỗi ngơ ngác anh hỏi:
- Gì thế em?
Chị gượng cười nhìn chồng:
- Có gì đâu anh, hai bà cháu thằng bé ăn xin vừa xin tiền và lấy hết những thức ăn thừa này. Em cảm thấy thương xót cho họ thôi.
Anh dăn dò:
- Lần sau đừng để họ đến gần, đám xin ăn bao giờ cũng bám vào chúng ta để cầu cạnh.
**********************
Trưa về nằm nghỉ trong khách sạn sang trọng, giường nệm êm ái, máy lạnh mát mẻ với thằng bé Vàng đang ngủ ngon bên cạnh, chị Ngâu vẫn không chợp mắt cho giấc ngủ trưa được. Anh Cheng đang bận đi họp với đối tác làm ăn.
Anh Cheng là giám đốc một công ty ở Singapore, làm ăn với vài công ty bên Việt Nam từ nhiều năm nay, nên chuyện về Việt Nam với anh rất thường xuyên. Do nhu cầu công việc và đi lại Việt Nam nhiều lần, ở lại nhiều ngày nên anh Cheng có thể nói tiếng Việt Nam, nhất là từ khi kết hôn với chị Ngâu thì khả năng nói và hiểu tiếng Việt của anh đã hoàn chỉnh hơn.
Chị Ngâu quay cuồng với những hình ảnh qúa khứ của mấy năm về trước. Ngày ấy chị còn là cô thôn nữ làng Chuông, nhà nghèo nhất nhì trong làng, nhưng chị cũng xinh đẹp nhất nhì trong làng, có nhiều anh con trai để ý chị, nhưng ở tuổi mới lớn, tâm hồn ngây thơ, chị Ngâu chưa biết kén chọn so đo, chị yêu anh Cư người cùng làng và nhà cũng nghèo như nhà chị. Bố anh mất sớm, mẹ anh ở vậy từ thời son trẻ để nuôi con, nên chỉ có anh Cư là thằng con duy nhất, đủ để nối dõi, thờ cúng tổ tiên ông bà.
Hai mẹ con có hai sào ruộng, ngày làng xã phân chia ruộng đất theo đầu người, mẹ anh góa bụa, nghèo nàn, thân cô thế cô không họ hàng để nương tựa, nhờ vả và không tiền bạc đút lót cho quan làng quan xã, nên mảnh ruộng xấu nhất làng không ai thèm nhận họ đã phân phối cho hai mẹ con.
Anh Cư có chiếc thuyền con, ngày ngày anh lưới cá bên sông Nhuệ, mẹ anh đem mớ cá ra chợ bán, mua lấy bó rau, bìa đậu hai mẹ con cũng sống qua ngày.
Thỉnh thoảng chị Ngâu ra gặp anh bên bờ sông ấy để chuyện trò và khi về thể nào anh Cư cũng cho chị mấy con cá sông, có hôm được vài con cá Mè, cá Trắm, hay con cá Chép to, hôm nào ít cũng có mớ cá Mường bé bé bằng ngón tay nhưng tươi rói, chỉ kho được một nồi nhỏ cũng đủ làm chị bồi hồi cảm động. Chị càng yêu anh vì thế.
Chẳng bao lâu họ lấy nhau, đám cưới nhà nghèo chỉ có miếng cau trầu, vài đĩa kẹo uống nước trà cũng gọi là tiệc cưới.
Chị có thai và đẻ ra một thằng con trai, nhà nghèo qúa, chị âu yếm đặt tên con là thằng Xu cho hợp với gia cảnh nhà chị chỉ có tiền xu, chẳng có tiền bạc của nả gì khác, nhưng thằng Xu của vợ chồng chị thì vô gía, vì chị yêu nó lắm.
Nhà thêm đứa con thêm chi tiêu, và tình yêu ngây thơ năm trước đã thành tình vợ chồng mấy năm đủ va chạm với thực tế.
Chị Ngâu đã biết lo xa tính tóan, chị thấy dân trong làng đua nhau vào Nam tìm việc làm để đổi đời, cho dù đi ở đợ cũng sướng hơn ở quê làm ruộng, được ăn trắng mặc trơn tại nhà chủ, ra dáng thị thành hẳn ra.
Chị bàn soạn với anh Cư, muốn hai vợ chồng vào Nam trước, để thằng bé Xu cho bà nội trông, khi nào tạm ổn định thì về quê bán hết nhà cửa ruộng nương để di cư vào miền Nam.
Nhưng anh Cư không cùng chí hướng với vợ, anh vẫn muốn ở làng quê, an phận đời sống nghèo với một mảnh ruộng, một mái nhà lá đơn sơ và một chiếc thuyền cũ ọp ẹp cũng đủ nuôi cả nhà không chết đói, mà ấm tình làng quê..
Chị Ngâu nghe tin những người làng ở trong Nam kể về mà sốt cả ruột, vợ chồng cái Thà chỉ một mẹt lòng lợn mỗi buổi chợ mà kiếm khá tiền, anh Bân đi làm phụ xế cho xe tải, chị Pháo làm công cho một cửa hàng bán vật liệu xây dựng..v..v..nghề nào cũng kiếm ra tiền cả…
Chỉ có nhà chị quanh quẩn với ruộng, mà ruộng không mất mùa cũng chẳng đủ ăn, ruộng xấu nên tốn nhiều tiền phân bón, lại tiền thuế má…
Với chiếc thuyền lưới lên vài con cá bé tí và môi sinh càng ngày càng cạn kiệt thì có ngày thuyền cũng phải lìa sông thôi.
Chị Ngâu càng đốc thúc chồng thì anh Cư càng phản đối, từ bé đến lớn anh chỉ quanh quẩn trong làng nên e ngại không dám bước ra cuộc đời ngoài luỹ tre làng.
Hai vợ chồng trở nên xung khắc mỗi ngày mỗi nhiều, anh đâm ra uống rượu, rượu vào thì lời ra rồi cãi nhau, hễ chị Ngâu to tiếng thì anh Cư cũng to tiếng hơn và anh đánh vợ. Họ chửi nhau, đánh nhau, có lần, bà mẹ anh Cư can không nổi đã phải chạy ra ủy ban xã nhờ can thiệp kẻo chúng nó giết nhau mất.
Chị Ngâu đã chán cảnh đói nghèo, chị oán hận chồng ngu dốt không biết mở mắt ra theo thời cuộc.
Một buổi trưa, khi anh Cư còn đang lênh đênh chiếc thuyền trên sông Nhuệ để lưới cá, thì chị Ngâu xuống bếp gặp bà mẹ chồng đang lúi húi đun nấu gì đó, căn bếp đầy khói và mùi rơm ẩm chưa khô làm chị cay cả mắt.
Chị nói:
- Mẹ trông thằng Xu, con về bên mẹ con tí việc….
Bà ngước nhìn con dâu, hiền hòa:
- Ừ, con đi đi, mẹ đang om lại nồi cá kho dưa hôm qua, cũng đủ cho bữa cơm chiều nay.
Rồi bà chép miệng than:
- Rơm còn ướt khói mù mịt cả ra…
Chị tần ngần chưa chịu đi:
- Cháu nó đang ngủ, chốc nữa mẹ nhớ mặc quần cho thằng Xu nhé, nhỡ quên thì chiều xuống lạnh đít nó…
Bà cười âu yếm khi nghĩ đến thằng cháu nội 3 tuổi:
- Mẹ biết rồi, cái thằng hễ ngủ trưa là đái dầm nên cứ phải ngủ truồng thế. Mà từ nhà mình về nhà mẹ con là đầu làng đến cuối làng việc gì con phải dặn dò như đi đâu xa không bằng?
Chị cắp nón và đi ra sân:
- Ấy là con quen mồm dặn thôi…
Nhưng ngay lúc ấy thì thằng bé Xu hiện ra ở ngưỡng cửa sau gần bếp, nó mới ngủ dậy, mặt còn ngái ngủ, khóc lè nhè. Thằng bé đứng khóc, cái bụng ỏng ưỡn ra nên hai mông nó như teo tóp lại. Thằng bé thấy mẹ cắp nón sắp đi, nó giơ hai tay ra đòi bế và khóc gọi thành tiếng:
- Mẹ…mẹ..
Tiếng gọi đứt quãng trong tiếng khóc hờn, chị bỗng thấy quặn lòng, định quay lại ôm con, mặc quần cho con rồi ra sao thì ra. Nhưng bà mẹ chồng đã từ trong khói bếp, từ trong mái bếp thấp lè tè chui ra. Bà nựng nịu cháu:
- Xu của bà ngoan nào, ra bà mặc quần rồi bà cho Xu ăn củ khoai lang luộc nhé.
Nghe bà nói củ khoai, thằng Xu nín khóc, nó quên mẹ, hai mắt nó sáng lên theo bà nó vào bếp. Thế là chị Ngâu nhanh chân bước đi, nếu không chị chẳng còn cơ hội nào mà dứt ra được khỏi thằng Xu nữa.
Chị không về ngôi nhà mẹ chị ở cuối làng, mà chị đi xa hơn. Cuối cùng chị đã lên chuyến xe lửa Bắc Nam, để vào thành phố Sài Gòn.
Chuyến tàu chiều ấy có người đàn bà rất trẻ ngồi thu lu trong lòng ghế, lòng buồn rười rượi, như người vô hồn chị quay mặt ra khung cửa toa tàu để nhìn cảnh vật đang lùi dần, lùi dần phía sau, có nghĩa là chị càng lúc càng lìa xa quê quán, xa mái gia đình.
Rồi hình ảnh thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa khóc giơ tay đòi bế hiện ra, chị đau đớn như dao cắt vào thịt da. Nước mắt chị tuôn rơi nhạt nhòa, chị nghẹn ngào kêu lên liên hồi hai tiếng “Xu ơi…”
Chị chẳng thiết gì đến ăn uống hay nhìn mọi người đồng hành xung quanh, chị cứ khóc cho đến khi mệt mỏi, người chị như lả đi, chị thiếp vào giấc ngủ vẫn thấy thằng Xu của chị đang đứng cởi truồng khóc, giơ tay đòi bế và tiếng gọi “Mẹ..mẹ…” vang lên âm ỉ trong đầu óc chị. Trong giấc mơ chị lại tha thiết gào lên: “Xu ơi…”
Chị Ngâu vào Nam, lang thang cả ngày ngoài đường phố để tìm việc làm, chị tránh không muốn gặp những người cùng làng vì sự ra đi kiếm cơm của chị như trốn chạy, như một sự lừa dối chồng con và cả bà mẹ chồng nhân hậu.
Đói khát bơ phờ mất mấy ngày thì chị xin được chân rửa bát trong một nhà hàng, chị đã sung sướng mơ đến ngày dành dụm được khá tiền sẽ về quê thăm thằng Xu, chị sẽ xin lỗi anh Cư và năn nỉ rủ rê chồng chịu vào miền Nam sinh sống lập nghiệp, cả nhà chị lại đâu vào đấy cho lương tâm chị bớt áy náy, bớt cắn rứt vì rời xa đứa con bé bỏng của mình.
Chị chăm chỉ rửa bát chưa được bao lâu thì bà chủ “thăng chức” cho chị, vì thấy chị vừa trẻ vừa xinh, chị được bà chủ cho mặc quần áo đẹp để làm nhân viên phục vụ nhà hàng, bưng bê đồ ăn thức uống cho khách. Nhờ có những cô phục vụ trẻ đẹp như chị mà nhà hàng giữ chân được nhiều loại khách, dù khách thường hay khách sang .
Nơi đây chị gặp anh Cheng thường đến ăn uống với bạn bè, mỗi lần Cheng đến là chị Ngâu được bà chủ điều động ra tiếp khách, vì anh Cheng có vẻ mến chị. Dần dần anh Cheng và chị Ngâu biết nhau hơn, thân nhau hơn…
Một hôm anh mời chị Ngâu tham dự sinh nhật của anh, chỉ có một mình chị Ngâu là khách mời, vì anh không muốn chia sẻ không gian thân tình ấy cho một người khác nữa, ngoài chị. Chị Ngâu đành nhận lời, chị muốn làm vừa lòng bà chủ nhà hàng vì anh Cheng là khách sộp thường xuyên của bà hơn là vì anh.
Buổi sinh nhật được tổ chức tại phòng khách sạn nơi anh tạm trú, anh hân hoan bên chị và cao hứng uống rượu khá nhiều. Trong cơn say rượu anh Cheng say tình luôn, anh đã thố lộ tình yêu với chị….
Cảm động và vị nể, chị đã yếu lòng sa ngã, chỉ một lần trao thân đêm ấy mà chị Ngâu mang thai, anh Cheng đã ân cần cầu hôn chị, vì dưới mắt anh cũng như bà chủ nhà hàng chị Ngâu vẫn là một cô gái quê trinh nguyên. Hơn nữa, anh Cheng ngủ với chị trong cơn say thì anh nào phân biệt được gái có chồng hay chưa. Chị trẻ đẹp và thật thà như thế…
Cha mẹ chị không thể gả con gái lần nữa, họ không thể làm điều bất nghĩa ấy, nhưng thương con gái họ đành vào Sài Gòn gặp con và anh Cheng, đưa ra lý do không muốn gả con xa cho người nước ngoài, nhưng chị Ngâu đã trưởng thành, chị cứ quyết định theo ý của mình.
Chị Ngâu theo anh Cheng về quê anh, mới biết anh con nhà trung lưu ở Singapore, là giám đốc một công ty và thường xuyên ở Việt Nam vì công việc. Chị sinh ra thằng con trai, nét mặt giống Cheng như hai giọt nước, khỏi cần đi thử máu Cheng cũng thừa biết nó là máu mủ của anh. Cheng đặt tên cho con theo giòng họ anh, nhưng tên ở ngoài chị gọi nó bằng tên Việt Nam, là thằng Vàng giàu sang, ngược lại với thằng Xu một thời nghèo khổ của chị.
Người Hoa qúy con trai, nên thằng Vàng được ông bà nội, cha và cả bên nội cưng qúy như vàng, vì đây là đứa cháu nội đầu tiên của họ. Cheng đem vợ con về sống ở Singapore cho gần bên nội, chỉ thỉnh thoảng Cheng mới đưa vợ con theo chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam .
Anh Cheng rất yêu vợ, thương con, chị Ngâu như chiếc lá trôi theo giòng đời, một giòng đời êm ái và hoa gấm. Hạnh phúc trong tình yêu của chồng mới, chị đã nguôi ngoai và quên đi hình ảnh anh Cư người chồng cũ, chị đã quên đi bà mẹ chồng nhân hậu, nhưng chị không thể dễ dàng quên đi thằng con nơi chốn quê nghèo tội nghiệp.
Từ ngày chị bỏ chồng con vào Nam, bố mẹ chị cũng xấu hổ với làng xóm. Bán xới nhà cửa ruộng vườn để về quê mẹ của chị rất xa lập nghiệp, để gĩa từ qúa khứ. Ở làng quê, người ta sống bằng danh dự cần thiết như cơm áo, cha mẹ chị không thể muối mặt ở làng quê mình để nghe tiếng chê bai, bàn ra tán vào và nhất là nhìn cảnh bên thông gia neo đơn trống vắng từ khi chị ra đi không hẹn ngày về.
Với lý do cha mẹ không hài lòng và lạnh nhạt, chị liên lạc rất ít với cha mẹ, vì muốn giấu diếm tung tích trước kia của chị để bảo vệ hạnh phúc gia đình hiện nay. Lần cuối cùng chị nghe tin từ cha mẹ là anh Cư đã theo vài hộ dân làng đưa mẹ gìa con mọn lên Lào Cai khai hoang kinh tế mới khi ở làng quê cuộc sống anh đã thực sự kiệt quệ. Dòng sông Nhuệ vẫn còn đó, nhưng chiếc thuyền của anh Cư đã quá mục nát, anh không có tiền để sửa chữa, vá víu thêm nữa…
Từ đó cha mẹ chị không dõi theo tin tức nhà anh Cư nữa, chị và anh Cư đã đường ai nấy đi, thằng Xu là con là cháu họ thì họ phải lo. Cha mẹ chị muốn quên đi cũng như chị đã muốn quên đi.
Gía mà chị nghe tin anh Cư lấy vợ có lẽ chị sẽ vui hơn, yên tâm hơn. Ít ra trong nhà cũng có một người đàn bà trẻ, gánh vác việc nhà, chăm lo cho anh Cư, còn thằng Xu đã có bà nội yêu thương chăm sóc rồi.
*****************
Trưa hôm sau, bằng giờ hôm qua lúc gia đình chị ăn món bún chả thịt nướng, chị dắt thằng Vàng ra nhà hàng ấy trong lúc anh Cheng bận đi công việc.
Chị vào trong gọi vài món ăn cho có lệ rồi chờ đợi, chị luôn nhìn khắp nhà hàng tìm kiếm bóng dáng hai bà cháu thằng ăn xin hôm qua…
Nhưng chị đợi mãi và cuối cùng thất vọng đi ra ngoài, gặp hai đứa bé ăn xin khác vừa từ trong nhà hàng đi ra, hai đứa khỏang mười hai, mười ba tuổi, chị liền vẫy lại hỏi:
- Này cháu…
Hai thằng bé chạy lại mừng rỡ:
- Dạ, cô Hai cho con xin ít tiền cô Hai…
- Cho con luôn cô Hai, từ sáng tới giờ con đói bụng qúa…
Chị Ngâu ân cần móc tiền ra :
- Cho hai cháu với điều kiện cho cô hỏi thăm một chút được không?
Hai đứa trẻ bụi đời cùng nhanh nhẩu:
- Được chớ, cô hỏi bao lâu cũng được mà…
- Cô cứ hỏi con biết là nói liền cho cô nghe…
- Hôm qua cô ăn trong nhà hàng này, có gặp thằng bé ăn xin đi với bà nó. Các cháu có biết hai bà cháu này không?
Một thằng đáp ngay:
- Cháu biết nè, bà gìa đó bị mù, là bà nội của thằng nhỏ đó.
Chị Ngâu mừng rỡ:
- Đúng rồi, sao hôm nay hai bà cháu không ra đây xin ăn?
Thằng bé còn lại bây giờ mới lên tiếng:
- Tưởng ai, chớ thằng bé với bà gìa đó con cũng biết luôn. Nó bị thanh tóan rồi !!
Chị Ngâu hốt hoảng và ngạc nhiên:
- Thanh toán ? Ai đã làm gì nó?
- Băng đảng nhí đó cô, là cỡ tuổi tụi con. Thằng Bắc Kỳ đó mới vô Nam không có ai giới thiệu mà dám bén mảng tới khu này ăn xin là phạm luật rừng, mấy đứa bụi đời ăn xin trong băng đảng nhí ở đây đã đánh cảnh cáo nó sưng mặt và đuổi nó đi khỏi khu vực nhà hàng này rồi…
Chị tưởng như toàn thân mình sắp qụy xuống, giọng chị nghẹn ngào:
- Giời ơi ! chết thằng bé mất thôi…
Chị cố hỏi thêm:
- Các cháu có biết hai bà cháu hiện giờ ở đâu không?
- Giang hồ mà cô, nó đi đâu ai biết…
- Đương nhiên là đi khỏi vùng này nếu không muốn ăn đòn lần nữa, tơi bời hoa lá cành hơn nữa…Sài Gòn này thiếu gì nơi cho bà cháu nó đến ăn xin, cô hơi đâu mà lo…
Chị lại cố nài nỉ:
- Không thể được, không thể được…các cháu kiếm tìm hai bà cháu nó cho cô đi, mỗi ngày cô sẽ đến đây trả tiền công cho hai cháu để biết tin tức…trong vòng 3 ngày nữa thôi, chỉ 3 ngày nữa thôi…
Nghe đến tiền công, và nhìn vẻ thất vọng khổ đau của người phụ nữ trẻ đẹp sang trọng, hai thằng bé cũng bùi ngùi:
- Dạ…con sẽ kiếm..
- Con sẽ dò la hỏi han mấy đứa bụi khác xem sao…
Hai thằng bé bỏ đi, để mặc chị Ngâu còn đứng ngẩn ngơ với thằng Vàng. Nó ngây thơ ngước mắt lên hỏi mẹ:
- Sao mẹ khóc ??
Chị ngồi thụp xuống ôm con vào lòng và lại khóc nấc lên:
- Xu ơi…
Thằng Vàng vùng vằng nũng nịu:
- Con không tên Xu, con là thằng Vàng mà…
- Ừ, Vàng của mẹ ơi…
Chị đứng lên cố nhịn khóc để gọi xe taxi về khách sạn, ngày mai bằng giờ này chị lại ra đây, chỉ còn 3 ngày nữa chị sẽ theo chồng về Singapore không biết chị có gặp lại bà cháu thằng Xu không?
Nếu gặp họ, chị sẽ ôm con thật chặt vào lòng và gọi lên hai tiếng “Xu ơi” như chị đã từng mơ ước và từng gọi thầm trong mấy năm qua. Chị cũng sẽ nói cho bà mẹ chồng biết là chị vẫn còn đây, dù bà đã oán hận chị, xem chị đã chết kể từ ngày chị bỏ chồng con ra đi.
Chị sẽ qùy xuống chân bà xin tạ tội, xin bà hãy mang thằng Xu về quê mẹ của chị, để thằng bé được thêm sự chăm sóc của tình ruột thịt bên ngoại. Chị sẽ tìm cách gởi tiền về nuôi hai bà cháu….
Chị khao khát ước mơ này như ngày xưa chị đã khao khát ước mơ bỏ làng quê, bỏ họ để ra đi.
Chị bế thằng Vàng, nó 4 tuổi, hơn tuổi thằng Xu một chút ngày chị rời xa nó. Nhưng hôm nay thằng Vàng trắng trẻo trong bộ quần áo đẹp đắt tiền, chân đi đôi giày xinh, khác với thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa, đi chân đất, cởi truồng lè nhè khóc và giơ tay đòi mẹ bế cùng với tiếng gọi “Mẹ …mẹ..” của nó cách đây 5 năm .
Hôm nay lòng chị cũng dùng dằng, cũng đau đớn như hôm ấy.
Hôm nay không có khói bếp và mùi rơm ẩm ướt như hôm ấy.
Nhưng hai mắt chị vẫn cay xè rồi mờ lệ, trong lòng chị lại nức nở gào lên : “Xu ơi.!”
Nguyễn Thị Thanh Dương

Nỡ Lòng Nào

NỠ LÒNG NÀO.
Bà Thục đậu xe xong thong thả đi lên lầu 2 bằng thang bộ, bà vẫn thích thế để thêm dịp vận động cơ thể, hơn là dùng thang máy cho tiện nghi và mau chóng.
Unit 1 phòng ngủ của bà trong khu apartment này được thiết kế gọn xinh, địa điểm lại gần khu thương mại Việt Nam cũng như chợ Mỹ nên bà rất vừa lòng.
Bà Thục thay quần áo và nằm ra chiếc ghế mây nghỉ ngơi, bà vừa ra chợ Việt Nam vào dịch vụ gởi tiền để chuyển 10,000 đồng về cho người em trai. Thế là bà đã làm tròn lời hứa hẹn với em và với tình cảm trong con người bà, lòng bà thảnh thơi, nhẹ nhỏm và vui mừng khi nghĩ đến gia đình em trai, chắc là vợ chồng con cháu họ đã sung sướng biết bao nhiêu.
Bà Thục thuê căn apartment với giá trợ cấp của chính phủ dành cho người có lợi tức thấp kể từ khi bà đủ tuổi về hưu 2 năm nay, bà sống ở Mỹ đơn độc không chồng, không con, mà ở Việt Nam cũng chẳng còn ai thân thích gần gũi ngoài gia đình ông Thức, đứa em trai duy nhất, cha mẹ bà đã lần lượt qua đời kể từ khi sau 1975.
Ngày xưa gia đình bà nghèo, nhưng cha mẹ bà cũng chắt chiu nuôi 2 chị em bà ăn học, đứa con gái là bà học hành chăm chỉ giỏi giang bao nhiêu thì thằng em học hành vừa lười vừa dở bấy nhiêu.
Cô Thục đã trở thành 1 dược sĩ. Cô dược sĩ Thục ngày ấy đã đi làm và phụ giúp cha mẹ đắc lực trong cuộc sống hàng ngày, còn Thức học không xong, thi rớt Tú Tài Thức đi lính, ngành tác chiến nay đây mai đó. Cô Thục thương em lận đận, mỗi khi em về phép ngoài các món ngon nấu cho em ăn, cô còn cho em tiền khi trở lại đơn vị.
Cô Thục không mấy xinh đẹp, có bằng cấp, ngành nghề sáng giá, nên hình như đó là những lý do khiến các chàng trai không thích đến gần, và cô miệt mài hi sinh cho gia đình nên hầu như không có cơ hội đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tuổi xuân trôi qua lúc nào không hay.
Sau 1975 cũng như bao nhiêu gia đình khác, cuộc sống nhà cô Thục trở nên chật vật khó khăn, rồi Thức lấy vợ sinh con, bấy nhiêu người sống cùng trong một nhà đã trở nên chật chội và tài chính càng lúc càng khó khăn hơn.
Năm 1989 cô Thục đi vượt biên tìm tự do và thêm lý do không kém phần quan trọng là vì kinh tế để có thể giúp đỡ gia đình hữu hiệu hơn, chuyến đi vượt biên cuối mùa đã khiến Thục phải chờ đợi ở Thái Lan hơn 4 năm sau khi đậu thanh lọc mới được phép đến Mỹ định cư.
Sang Mỹ ở lứa tuổi về chiều, 49 tuổi rồi, Thục chợt nhận ra mình đã lãng quên chính mình hơn nửa đời người, học lại thì không thể mà lấy chồng cũng không xong.
Cô Thục đã đi làm những công việc trong hãng xưởng để có tiền sinh sống và gởi tối đa những đồng tiền của mình kiếm được về giúp gia đình ở Việt Nam.
Rồi cô Thục cũng lấy chồng.
Nhưng chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, cố gắng kéo dài được mấy năm cho có đôi, có cặp thì người chồng đã chia tay trả Thục trở về vị trí độc thân như cũ, thế là cô Thục gìa chấp nhận duyên phận thiệt thòi hẩm hiu, ở vậy cho đến giờ.
Thỉnh thoảng bạn bè cũng có ý giới thiệu cho bà một ông độc thân góa vợ nào đó, để đỡ đần và bầu bạn cùng nhau cho vui nhà, nhưng bà từ chối ngay, đời chắc gì vui, duyên chắc gì may? lỡ gặp ông khó tính khó nết, hay ông ngã ra ốm đau bệnh hoạn nằm một chỗ thì bà phải hầu hạ, còn nếu ngược lại bà ốm đau nằm một chỗ chưa chắc ông kia hầu hạ được gì.
Cuộc sống độc thân tuổi về hưu tuy có lúc buồn mà thảnh thơi, hàng ngày bà xem các phim truyện trên ti vi vừa để giải trí vừa để duy trì tiếng Anh của mình, rồi nghe nhạc, đọc sách, một đam mê ngày cô Thục còn trẻ để tìm lại cảm giác thú vị của ngày xưa.
Với đồng lương lao động tằn tiện bao lâu nay bà Thục cũng để dành được một món tiền, bà cất kỹ trong nhà băng.
Từ ngày về hưu bà sống bằng những đồng tiền hưu trí của mình cũng gọi là đủ, vì bà không có nhu cầu gì nhiều ngoài hàng năm vẫn gởi chút tiền về Việt Nam cho gia đình Thức hiện vẫn sống tại căn nhà cũ, nơi xóm nghèo xưa do cha mẹ để lại.
Xưa bà Thục thương thằng em vất vả đời lính, nay lại thương em vất vả cảnh nghèo, nên bà vẫn không ngừng gởi về đỡ đần cho em.
Bà Thục đã đưa chồng về thăm Việt Nam 1 lần để giới thiệu chồng với gia đình mình. Sau cuộc hôn nhân gãy đổ bà buồn chán và tủi thân, không có ý định về Việt Nam nữa. Nhưng những chuyện buồn vui của cuộc sống nơi xứ người bà vẫn tâm sự với người em ruột thịt của mình cho vơi nhẹ lòng, hai chị em đã luôn gần gũi từ thuở ấu thơ đến khi khôn lớn và cho đến bây giờ cả hai cùng tuổi xế chiều.
Bà kể từ chuyện bà bị bệnh cao máu, cao mỡ, và bệnh cườm mắt, phải uống thuốc và nhỏ mắt mỗi ngày mấy lần cho đến hết cuộc đời, đến những chuyện vặt vãnh hàng ngày. Từ chuyện bà về hưu và tiết kiệm xin được ở nhà gía rẻ dành cho người gìa, xin được tiền food stamp, đến chuyện bà dành dụm được món tiền phòng thân sau này.
Tóm lại bà Thục hài lòng với cuộc sống vật chất bảo đảm, dù cô đơn một mình một nhà.
Mới đây ông Thức đã gọi phone cho bà và tha thiết đưa ra một đề nghị mong chị giúp đỡ, thay vì chị gởi cho chút tiền mỗi năm và mỗi khi gia đình em cơ nhỡ thì em xin chị giúp hẳn một món tiền để có vốn làm ăn là 10 ngàn đô la.
Bà Thục đã suy nghĩ rất kỹ, bà đã gìa rồi và một ngày nào đó sẽ chết đi, số tiền dành dụm tuy không nhiều, nhưng là tất cả mồ hôi công sức của bà phải được hữu ích cho người thân của mình. Bây giờ họ đang nghèo khổ, họ đang cần tiền. Thế là bà Thục đồng ý
Và hôm nay bà đã làm xong nhiệm vụ thân thương ấy.
Hai hôm sau bà Thục nhận được phone của ông Thức, người em hoan hỉ báo tin đã nhận 10 ngàn đô của bà và không tiếc lời cám ơn chị. Lòng bà Thục ấm lên, vui lên, nhiều gấp cả chục lần niềm vui của người em.
Từ nay bà Thục sống thanh thản hơn dù món tiền dành dụm của bà đã vơi đi, bà sẽ viết lại một tờ di chúc nếu sau này bà chết, sau phần chi phí cho hậu sự, còn bao nhiêu, dù ít ỏi, nhờ người ta gởi những đồng tiền còn lại về cho Thức.
Vậy mà 3 tháng sau ông Thức gọi phone sang, bà Thục chưa kịp vui mừng hỏi han em đã làm ăn gì chưa thì ông Thức buồn rầu tuyên bố:
- Chị ơi, nhà em mới vừa bị kẻ gian đột nhập xông thuốc mê và lấy cắp hết 10 ngàn đô rồi !
Bà Thục bàng hoàng nghe em nói tiếp:
- Chị có thương em, thương các cháu chị, thì xin chị giúp em lần nữa…
Bà Thục không còn sức cầm lấy chiếc điện thoại nữa, bà buông phone và buông người ngồi phịch xuống ghế như một kẻ không hồn.
Bà đã mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm, 10 ngàn đô là bao công lao và tấm lòng của bà gởi về, thế mà bị mất đi một cách gọn gàng êm thắm, nhẹ tênh như bông gòn, như mây bay, gío thoảng, hay như một trò đùa, một màn kịch vụng về không hơn không kém.
Bà không thể nào tin được.
Nhưng em trai bà nỡ lòng nào dựng lên màn kịch này để lừa dối bà, để xin thêm tiền của bà? Bà dằn vặt tự hỏi và không thể trả lời.
Cuối cùng bà Thục quyết định sẽ về Việt Nam bất ngờ, đối diện với em mình để tìm hiểu sự thật cho ra lẽ.
**************
Từ phi trường Tân Sơn Nhất, bà Thục thuê xe Taxi đưa bà đến một khách sạn tại Gò Vấp, bà biết căn nhà cũ sẽ không có chỗ thoải mái cho bà vì theo lời ông Thức kể bấy lâu nay là hai đứa con đã lập gia đình và một đứa còn độc thân đều ở chung với vợ chồng Thức, nhà đất ở Việt Nam rất đắt đỏ, Thức tiền bạc đâu mà lo cho các con chỗ ở riêng.
Cuộc sống là sự tuần hoàn như cây cối, gìa cỗi thì chết đi, cây con thì sinh sôi nẩy nở…xưa căn nhà ấy có cha mẹ và 2 chị em bà, nay căn nhà ấy đã đông hơn, thêm lên mấy đầu người rồi.
Buổi chiều hôm sau bà Thục tìm về xóm cũ tại khu cầu hang quận Gò Vấp.
Khu xóm nay đã đổi khác rất nhiều nhưng bà làm sao quên được lối cũ, cảnh xưa. Kia vẫn là đường rầy xe lửa dẫn đến ga Xóm Thơm, và bên này là nhà cửa chen chúc.
Bà vừa đi vừa dò tìm theo những dấu vết cũ, cuối cùng bà Thục cũng tìm ra đúng số nhà, nhưng đứng trước căn nhà bà kinh ngạc, không tin đây là sự thật vì căn nhà to đồ sộ và cao ngất 4 tầng lầu, chứ không phải là căn nhà trệt tầm thường ngày xưa cô Thục từng ở từ thuở sinh ra đến khi lớn lên với cha mẹ mình nữa.
Bà ngại ngần, bà ngẩn ngơ, không dám gõ cửa, mà đi ra một quán nước ở đầu con hẻm, đối diện xéo xéo với nhà ông Thức, bà gọi một ly nước uống để định thần lại cho tỉnh táo, kẻo bà tưởng mình đang mơ.
Hay là bà đã nhìn lầm số nhà? Không, chắc chắn là không vì bà đã nhìn kỹ mấy lần rồi.. Hay là em trai bà đã bán nhà cho người khác? Cũng không, vì bà mới gởi số tiền 10 ngàn đô về địa chỉ nhà này.
Khi cô hầu bàn bưng ly nước ra thì bà Thục vờ hỏi bâng quơ:
- Căn lầu 4 tầng kia sao mà đẹp thế…
Cô gái vui vẻ tiếp chuyện:
- Dạ, bởi vì căn lầu đó ông bà Thức mới xây vài năm nay, kiểu đẹp, nhà mới nên ăn đứt mấy căn lầu khác.
- Ông bà Thức giàu có sướng thật…
Cô hầu bàn xuýt xoa:
- Ông Thức còn xây cho hai đứa con có gia đình ra ở riêng mỗi đứa một căn lầu tương tự căn này nữa đó. Căn này thì ông bà ở chung với thằng Út còn độc thân. Ba cha con ông Thức cùng làm chủ một xưởng cưa gỗ xuất khẩu, giàu có lắm lắm luôn, nhất xóm luôn.
Bà Thục cũng xuýt xoa:
- Số họ thật may mắn, làm ăn thành đạt nhỉ.
- Còn nữa bác ạ, nghe nói mới đây người thân ở nước ngoài gởi cho họ 10 ngàn đô nữa cơ, đã giàu có mà tiền ở mãi đâu cứ tự nhiên chảy vào túi.
Thế là bà Thục đã hiểu, gia đình ông Thức đã ăn nên làm ra từ lúc nào nhưng Thức không hề kể cho bà nghe, mà vẫn chăm chỉ than thở xin xỏ bà dù mỗi lần chỉ vài trăm đô, và cuối cùng là món tiền 10 ngàn đô. Nhưng họ chưa chịu dừng lại ở đó, lại nói bị mất cắp để xin thêm, có lẽ vì thấy bà đồng ý cho 10 ngàn đô dễ dàng qúa chăng?
Ông Thức biết bà không có ý định trở về thăm Việt Nam nữa, bà ngại đi xa vì đi đâu cũng phải mang theo mấy loại thuốc men lỉnh kỉnh như con mọn, lại sợ ngã bệnh bất ngờ, và vì nơi đó những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui, nơi đó cha mẹ bà đã không còn nữa, thằng em trai của bà đã gìa đi, và các cháu thì dường như xa lạ. Bà chỉ liên hệ với họ qua phone và gởi tiền về giúp em, giúp cháu khi cần thiết là đủ vui rồi.
Bà Thục thất vọng không ngờ em bà đã đổi thay đến thế, nó đã lợi dụng lòng tốt và tình thương của bà dành cho nó từ thuở còn thanh xuân cho đến giờ..
Bà Thục giận lắm, định quay trở về khách sạn, không gặp em, không bao giờ gặp nó nữa, bà sẽ trở về Mỹ và quên đi thằng em đã đối xử với bà không còn tình nghĩa. Nhưng sau khi uống hết ly nước, lòng tự giằng co, bà vẫn quyết định đến nhà ông Thức.
Bà bấm chuông cổng, tiếng chó sủa inh ỏi rồi có người ra mở cổng. Chính là Thức, ông ta ngơ ngác nhìn bà chị rồi thảng thốt kêu lên không biết vì vui mừng hay vì kinh ngạc như bà đã kinh ngạc khi nhìn thấy ngôi nhà:
- Trời ơi, chị Thục hả?
- Vâng, tôi là Thục đây.
- Trời ơi, sao chị về không báo trước để em và các cháu ra phi trường đón ?
Bà theo chân em vào nhà, căn phòng khách rộng lớn với đồ đạc bóng bẩy sang trọng làm bà Thục chóa cả mắt vì bà quen với phòng khách nhỏ gọn ở căn apartment của bà rồi. Từ bộ bàn ghế, vách tường, đến kệ trang trí đều là sản phẩm của gỗ qúy với kiểu dáng đẹp, sành điệu và qúy phái, đúng với phong cách thành đạt của ông chủ kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu.
Vợ ông Thức cũng từ dưới nhà chạy ra hớn hở:
- Chị về chúng em mừng qúa, hành lý chị đâu? Nhà em rộng rãi xin mời chị…
- Cám ơn em, chị không biết nhà đã xây lại rộng đẹp thế này nên đã ở khách sạn rồi
Sau vài câu thăm hỏi thông thường, bà Thục buồn buồn và nghiêm trang đi vào vấn đề:
- Các em đã làm ăn khá gỉa, có cơ ngơi thế mà không cho chị biết để chị mừng với, mà còn gây cho chị cảm tưởng là các em vẫn nghèo khó như xưa và xin chị món tiền 10 ngàn đô là thế nào?.
Ông Thức vội lên tiếng bào chữa:
- Nhờ trời thương gia đình em mới phất lên những năm sau này. Em xin lỗi chị, chỉ vì muốn vun đắp tom góp cho con cháu em mới xin tiền chị…
Bà Thục cay đắng:
- Kể cả việc em bịa đặt ra bị mất 10 ngàn đô để xin thêm lần nữa? em tưởng chị giàu có lắm sao?. Chị đã chắt chiu bao lâu mới để dành được số tiền ấy.
Ông Thức cố giải bày:
- Dù gì cuộc sống bên Mỹ chị cũng được bảo đảm lúc tuổi gìa, nhà nước lo hết, có đồng vốn nào chị không cho các cháu thì cho ai bây giờ? Cho trước thì khỏi cho sau, con cháu em cũng như con cháu chị…
Vợ Thức xen vào cho câu chuyện chuyển sang hướng khác:
- Nếu chị muốn về sống ở Việt Nam thì chúng em mời chị về đây ở chung căn nhà này như ngày xưa. Bây giờ những 4 tầng lầu, chị cứ ở hẳn 1 tầng tha hồ rộng rãi, lại có chị có em…
Tình chị em gì khi mà họ đang sống trong giàu có, vợ chồng, con cháu đông đủ quây quần bên cạnh mà vẫn moi móc những đồng tiền dành dụm của bà, một người gìa sống đơn độc nơi quê người, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng trông chờ vào xã hội, vào người dưng giúp đỡ, hơn nữa bà Thục không bao giờ có ý định về sống ở Việt Nam nên bà từ chối ngay:
- Chị ở Mỹ quen rồi, ở đấy có mọi tiện nghi và lợi ích, về đây khỏe mạnh thì không sao, lỡ ốm đau sao bằng bên Mỹ được.
- Chị nghĩ thế cũng phải, nhưng bất cứ lúc nào chị thay đổi ý định thì cứ trở về, chúng em luôn chờ đón chị.
- Cám ơn hai em.
Khi bà Thục đứng lên từ gĩa vợ chồng ông Thức, người em ái ngại cầm bàn tay chị, cố biện minh lần nữa:
- Mong chị hiểu cho chúng em, đằng nào những món tiền dành dụm chị không cần tới, mà bên này thì con cháu đông, công việc làm ăn lúc này lúc khác chẳng biết đâu được, chị bên ấy một thân một mình, có đồng nào cho các cháu là chắc chắn nhất, không đi đâu mà thiệt chị ạ.
Vợ ông Thức vẫn ngọt ngào mời chào:
- Mỗi ngày chị đến ăn cơm với chúng em và các cháu cho vui nhé? chị đồng ý đi để ngày mai em làm món ngon đãi chị.
- Ừ, mai chị sẽ đến đây, chị ăn thế nào cũng được mà…
Vợ chồng ông Thức gọi xe taxi đến và vui vẻ tiễn chân bà Thục ra cổng, đợi người chị vào xe họ mới quay vào nhà.
Bà Thục ngồi trên xe, quay nhìn ngôi nhà lầu 4 tầng lần nữa, từ trong đáy lòng bà Thục vui mừng khi thấy cảnh nhà em trai giàu có, và cũng từ trong đáy lòng bà cảm thấy một sự đổ vỡ, tan nát. Đôi mắt bà rưng rưng nhỏ lệ.…
Bà biết rằng ngày mai, cũng như mỗi ngày sau đó, trong thời gian còn ở Việt Nam, bà sẽ đến đây ăn cơm với em, với các cháu.
Đấy vẫn là tình cảm, là tình ruột thịt bà dành cho họ, bà không nỡ quay mặt với họ, dù rằng bà đau đớn vì mất đi hình ảnh người em ruột thân thương gần gũi ngày xưa, dù rằng bà xấu hổ giùm người em ruột tham lam, tính toán và ích kỷ bây giờ.
Và nỗi đau đớn ấy, sự xấu hổ ấy sẽ theo bà về Mỹ, và theo bà cho đến hết cuộc đời.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( August, 2012)



Đi Thăm Nước Mỹ

ĐI THĂM NƯỚC MỸ.
Ông Sĩ ngồi ở bàn, bên ấm chè nóng, ông đang tra thuốc vào chiếc điếu cày và châm lửa hít một hơi, xong khoan khoái ngửa mặt ra thả một làn khói bay mù mịt.
Bà Sĩ ngồi dưới đất, cạnh bàn, đang lo gói ghém lại các món qùa trước khi bỏ vào túi xách cho chồng. Bà hài lòng khoe:
- Toàn là cây nhà lá vườn ông nhá, long nhãn khô, măng khô, bột sắn giây, tự tay tôi làm cả…Những thức này nghe nói ở bên Mỹ qúy hiếm lắm, tìm không có, đào không ra đâu…
Ông Sĩ ra vẻ hiểu biết:
- Thiếu giống gì, hàng của ta xuất khẩu sang Mỹ nhiều lắm, đến củ giềng ăn thịt chó cũng có nữa là. Để sang Mỹ tôi sẽ ăn thịt chó Mỹ xem có béo không? Chó tư bản nhà giàu mà.
Ông Sĩ hớp một ngụm chè để vài giây cho thấm thía mới gật gù:
- Chè mộc Thái Nguyên ngon thật. Bà có mua chè này mang sang Mỹ làm qùa không, hử?
- Sao không chứ. Những gì ông dặn tôi mua tất….
Bà Sĩ đứng lên, phủi bụi quần và ân cần bảo chồng:
- Xong hết cả rồi, ông đi ngủ sớm mai còn ra phi trường Nội Bài, mai tôi cũng dậy sớm nấu cho ông nắm cơm nếp ăn đi đường.
- Gớm, bà cứ làm như ngày xưa lúc tiễn tôi lên đường trở về đơn vị sau lần tôi hiếm hoi về phép thăm nhà không bằng. Nhưng mà đi xuất cảnh sang Mỹ ai lại mang món cơm nếp nhà quê này chứ?
Bà Sĩ âu yếm gắt:
- Ăn cho nó chắc bụng, không gì bằng cơm nhà qùa vợ. Ông đừng có mà sĩ diện.
Suốt mấy ngày nay, biết tin ông Sĩ sắp đi Mỹ du lịch, họ hàng, làng xóm đã thăm hỏi, chúc mừng không ngớt, và nội bộ nhà ông cũng bận rộn tíu tít, lo sửa soạn hành lý và …tâm lý không ngớt.
Đời cứ như là mơ, ông Tượng, người em của ông Sĩ di cư vào Nam từ năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975 đã mời ông Sĩ chuyến đi du lịch này.
Ngày di cư ấy bố ông đã dẫn thằng em 12 tuổi vào Nam trước, ông Sĩ ở nhà với mẹ, sẽ vào Nam sau. Nhưng chuyến đi Nam ấy không thực hiện được, gây ra cảnh chia lìa một gia đình 4 người mà nửa Nam nửa Bắc.
Ông Tượng quyết không bao giờ trở về Việt Nam nếu đất nước còn chế độ cộng sản, ông chỉ liên hệ với người anh duy nhất của mình qua thư từ hay điện thoại và thỉnh thoảng gởi tiền về giúp anh chị.
Ông Tượng mời anh sang Mỹ chơi, coi như một món quà hào hiệp tặng anh, trước là thăm thân nhân sau là đi cho biết đó biết đây.
Hai anh em hai lý tưởng khác nhau, ông Sĩ đi bộ đội miền Bắc suốt một thời tuổi trẻ để giải phóng miền Nam cho đến khi đúng tuổi giải ngũ. Ông Tượng là lính miền Nam, chiến đấu chống lại quân đội Bắc Việt.
Sau chiến tranh hai anh em đều sống sót, nhà ông may mắn thế, nhưng biết đâu có những nhà khác, anh em, cha con hay chú cháu đã đối diện nhau nơi chiến trường, xả súng vào nhau để giành phần chiến thắng mà nào hay tình máu mủ liên hệ…
Cha mẹ đều lần lượt qua đời mà chẳng thấy mặt nhau sau lần chia ly vì thời cuộc ấy, chỉ còn hai anh em nên ông Sĩ háo hức muốn gặp lại thằng Tượng em ruột của mình lắm..
Ngày xưa bố ông rất mê chơi cờ tướng, nên đặt tên các con theo từng quân cờ, người anh cả mang tên Nguyễn vănTướng qua đời khi lên 3 tuổi vì một cơn bạo bệnh, người con thứ hai là ông Sĩ và người kế tiếp là Tượng thì mẹ ông phát bệnh gì đó mà không thể sinh đẻ được nữa, nếu không thì anh em ông còn …kéo dài thêm mấy quân cờ nữa như Xe, Pháo Mã, Tốt, vì thuở ấy nhà nào cũng bảy, tám đứa con là chuyện thường.
Ông Sĩ cũng háo hức muốn biết mặt mũi nước Mỹ nó ra làm sao mà ghê gớm thế, có thể làm ảnh hưởng cả thế giới và một thời đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam để miền Bắc của ông phải vất vả, bao nhiêu thanh niên nam nữ lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự và bao nhiêu người đã gởi thây nơi rừng núi chiến trường miền Nam, mất xác, mất tăm tích cho đến tận bây giờ.
Tất cả chi phí chuyến du lịch qua Mỹ dĩ nhiên đều do người em lo. Nhà nghèo xác nghèo xơ, chuyện đi Tây đi Mỹ du lịch là một giấc mơ vĩ đại cả đời ông không dám nghĩ tới, thì bây giờ cơ hội trong bàn tay dại gì ông từ chối.
Sáng hôm sau ông Sĩ thức dậy sớm, nhưng bà đã dậy sớm hơn ông từ lúc nào, cơm nếp nấu xong bà gói trong lá chuối, với một gói muối vừng để tiện mở ra ăn. Đám con cháu cũng lần lượt đến tiễn ông Sĩ lên đường. Thằng con trai cả sẽ làm nhiệm vụ chở bố ra phi trường Nội Bài. Từ quê ông ra Hà Nội mất gần 1 tiếng, từ Hà Nội ra phi trường Nội Bài mất thêm khoảng 40 phút nữa.
Hai bố con đến phi trường Nội Bài, bố con dặn dò nhau xong thì ông Sĩ bước vào trong, ông hoa mắt vì lần đầu tiên trong đời mới được biết phi trường là gì. Ông cầm cuốn hộ chiếu chìa ra để trình bày và hỏi thăm, người ta chỉ cho ông chỗ xét gởi hành lý trước..
Cô hải quan đanh đá thô bạo đưa tay bới túi hành lý, cô định mở từng bọc một thì ông Sĩ biết điều móc túi ra, ông tần ngần suy nghĩ, nó trông phong lưu và đẹp người thế, trong khung cảnh phi trường hoành tráng thế, mà đưa tiền ít chắc không xứng đáng lại thêm rắc rối?
Ông đành lấy ra 5 trăm ngàn đồng Việt Nam dúi vào tay cô, kẻo cô mở tung toé ra thì giờ đâu ông xếp lại cho được :
- Chẳng có gì đâu, ít thực phẩm khô làm quà thôi mà…
Nhận được tiền, cô hải quan dịu dàng, tươi tỉnh ngay:
- Thế mà bác không nói cho cháu biết trước. Thôi, bác yên chí, hành lý này sẽ chuyển lên chuyến bay với bác.
Kinh nghiệm lo xa của ông thật hữu ích, ông đã bảo bà để một số tiền mặt cho ông “đi đường”, hễ có giao thiệp với bất cứ nhân viên cấp nào, ngành nghề nào phải có tiền mới giải quyết được sự việc. Tiền có sức mạnh ghê gớm, tiền cất tiếng nói thay người.
Xong việc ký gởi hành lý, ông Sĩ thảnh thơi ôm cái xách tay và lại hỏi thăm chỗ đăng ký lên máy bay, lại hết chỗ nọ đến chỗ kia, cuối cùng ông đã tìm ra đúng chỗ, ông đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì thì bị anh hải quan ngồi sau chiếc bàn dài, mặt non choẹt, quát xa xả:
- Ông kia, đưa giấy tờ đây, làm mất cả thì giờ của người khác.!!
- Vâng ạ, có hộ chiếu xuất cảnh đầy đủ đây ạ…người xuất cảnh là tôi Nguyễn Văn Sĩ, sinh năm.…
Anh Hải Quan bực mình ngắt ngang:
- Khi nào cần tôi hỏi, ông không phải khai. Giấy nhập cảnh nữa, xuất khỏi đây ông sẽ đến đâu. Đấy là thủ tục.
Ông lại móc túi quần qua hai ba lớp gói, lớp bọc để lôi ra giấy nhập cảnh trân trọng đặt lên mặt quầy cho anh hải quan. Tướng tá sang cả và mặt anh ta lạnh lùng càng làm ông Sĩ cảm thấy mình thấp hèn và hồi hộp như một kẻ đang đợi được ban ơn:
- Thưa anh, thế đủ chưa ạ ? cần gì nữa không ạ?
Anh hải quan lại quát:
- Ông ạ, ạ..gì mà lắm thế? có im đi không cho người ta làm việc.
Ông Sĩ im ngay tức khắc, liếc nhìn sang anh hải quan bên cạnh đang “làm việc” với một người nước ngoài, nhã nhặn, lịch sự, ông ngạc nhiên tự hỏi :” Hai anh hải quan này cùng làm một việc, nhưng tính khí khác nhau? hay chắc tại mình và ông nước ngoài kia khác nhau? mà hai cảnh đối xử một trời một vực thế nhỉ?”
Anh hải quan của ông đã xét giấy tờ xong, anh ta đẩy mạnh mớ giấy tờ về phía ông, suýt nữa thì cuốn sổ hộ chiếu quá đà rơi xuống đất nếu ông Sĩ không nhanh tay đỡ kịp.
Anh hải quan không thèm nói một câu, nhưng ông biết là đã xong, vội thu gom giấy tờ của mình bỏ vào bọc, vào túi và bước theo lối có mũi tên chỉ dẫn để ra chỗ cổng vào máy bay, để nhường chỗ cho người khác tiến lên.
Tới đây tưởng đã được yên thân, nhưng khi ông cẩn thận và thân ái hỏi một cô mặc đồng phục nhân viên phi trường đang ngược chiều đi đến :
- Có phải lối này ra chỗ máy bay không cháu?
Thay vì trả lời 3 chữ “vâng đúng rồi” để tiết kiệm năng lượng trong người, cô gái tốn công cau có, gắt gỏng bằng một câu dài hơn:
- Có một lối này ông còn hỏi gì nữa…?
Ông Sĩ bất chấp lối ăn nói “sinh sự” ấy, vẫn tươi cười và thân ái:
- Thế hả, bác cám ơn cháu.
Vừa trả lời ông Sĩ vừa rảo bước thật nhanh, kịp lúc người ta đang gọi loa mời hành khách lên máy bay.
Vào trong máy bay gặp các cô tiếp viên Việt Nam, ông Sĩ lại…giật mình vì cảm thấy chưa thoát nạn, nhưng ông tự trấn an : “ Đã ngồi vào trong máy bay là chắc ăn rồi, có bị chúng nó gắt gỏng nữa cũng không thành vấn đề”.
Các cô tiếp viên hàng không Việt Nam trông ai cũng sáng sủa, trẻ đẹp và sang cả như mấy người hải quan lúc nãy, ông Sĩ tự kết luận phi trường là chỗ làm việc của những đứa con nhà giàu quyền thế, khác hẳn với mấy đứa cùng trang lứa ở quê ông, mặt mày tối tăm, ngu dốt và đáng thương như miếng thịt ôi trên phản thịt chợ chiều 30 Tết.
Các cô tiếp viên hàng không đẹp mà kiêu kỳ xa cách qúa, ông lại tưởng như mình không phải là hành khách trên chuyến bay, mà đang đi nhờ họ thì đúng hơn, nên ông không dám làm phiền, biết thân biết phận ngồi gọn gàng và im thin thít tại chỗ, dù có nhiều thứ lạ, ông muốn cất tiếng hỏi han lắm, nhưng chẳng dại gì mở miệng để bị mắng như lúc nãy hỏi đường cô nhân viên..
Máy bay rời Việt Nam đến phi trường Nhật Bản, ông lại lạc vào mê cung lần nữa, kinh hoàng hơn vì chung quanh không còn nhiều người Việt Nam.
Thà bị mắng, bị gắt như ở phi trường Nội Bài còn là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, còn dễ dàng hỏi thăm, đằng này xứ lạ quê người.
Nhưng khi ông chìa vé, chìa hộ chiếu ra chẳng biết nói câu tiếng Nhật nào mà cũng được người ta giúp đỡ rất tận tình, dẫn tay ông ra tận chỗ cổng máy bay mà ông cần. Thế là ông nhẹ cả lòng, ngồi tại chỗ quyết không đi đâu xa, sợ lạc mất cái cổng máy bay này. Bây giờ ông Sĩ mới thong thả mở gói cơm nếp của bà vợ ra ăn trong thời gian chờ máy bay mấy tiếng đồng hồ. Từ phi trường Nội Bài gặp các sự sách nhiễu vô lý, ông thấy gói cơm nếp của vợ thật có lý, có tình.
Lên chuyến bay ở Nhật, từ Nhật cách Việt Nam chẳng bao xa, mà không khí, con người đã khác nhau xa, nhân viên trên máy bay ân cần giúp đỡ ông tìm ghế ngồi, chỉ cách cài dây an toàn, và giúp ông để túi hành lý vào khoang tàu với nụ cười và nét mặt tươi tắn..
Lần này ông ngồi gần khung cửa sổ và tâm hồn tự tin thanh thản hơn nên tha hồ làm chủ tình hình, ông ngả đầu ra ghế để nhìn ngắm bên ngoài, từ lúc máy bay từ từ lăn bánh, rồi lấy đà cất cánh lên cao dần, thành phố càng lúc càng xa ở phía dưới, ông sợ lắm, nhưng cũng thú vị lắm, không ngờ trong đời mình có lúc được đặt chân vào phi trường để xuất ngoại, được “đi mây về gió” thế này.
Các cô tiếp viên Nhật Bản cũng xinh đẹp, lịch lãm, cao sang không thua gì các cô tiếp viên hàng không Việt Nam nhưng họ thật là thân thiện, họ mỉm cười kiên nhẫn nhìn ông ra dấu chỉ trỏ các món thức ăn, nước uống nào mà ông muốn trên suốt chuyến bay dài từ Nhật đến nước Mỹ xa xôi. Bây giờ ông thật sự là một hành khách được phục vụ tận tình và trân trọng.
Ông náo nức nghĩ đến nước Mỹ, nghĩ đến thằng em và đám con cháu nhà nó, cũng như họ hàng làng nước mà ông có thể sẽ gặp trong thời gian thăm viếng Mỹ.
Xuống tới phi trường Los Angeles tiểu bang California lúc 12 giờ trưa hôm sau, ông Sĩ thêm một phen choáng váng đến hoang mang, phi trường to lớn và náo nhiệt như cả thế giới, toàn thể nhân loại đều tụ họp ở đây, người ta nói đủ thứ tiếng làm ông nghe mà điếc cả tai.
Ông lắng tìm nghe tiếng Việt Nam, nhìn khuôn mặt Việt Nam và đi theo họ cho chắc ăn, ông chỉ có một túi hành lý ký gởi nên hải quan Mỹ làm rất nhanh chóng. Họ hỏi, thì có người hành khách Việt Nam bên cạnh dịch lại cho ông, ông trả lời không mang thực phẩm có thịt, cá . Thế là anh hải quan xét hàng tin ngay, chẳng buồn mở ra kiểm tra ông nói thật hay không. Người Mỹ sao mà dễ tin người thế chứ.
Xong ông xếp hàng dài chờ trình giấy tờ nhập cảnh vào Mỹ mà lòng vẫn chưa hết kinh ngạc vì anh hải quan Mỹ xét hàng vừa rồi, ông vui lây và tự hào vì đã được người ta tin tưởng vào lời nói của mình.
Người này tử tế bao nhiêu ông lại nghĩ đến người kia bấy nhiêu, nét mặt câng câng đáng ghét của cô hải quan xét hàng hóa ở phi trường Nội Bài khi lục mở túi hành lý của ông, và bộ mặt ấy bỗng biến thành tươi cười hơn hớn khi nhận được tiền ông đút lót.
Bây giờ so sánh hai sự khác biệt, ông mới thấy đau đớn vì tiếc tiền, ông lẩm bẩm chửi khẽ:
- Tiên sư con quạ mổ! Tiên nhân con nặc nô ! làm tao mất toi năm trăm nghìn đồng bạc.
Đến lượt ông Sĩ đối diện với ông hải quan Mỹ, ông nộp giấy xuất nhập cảnh ra, nhìn ông hải quan Mỹ to béo kềnh càng, ông Sĩ khiếp vía, ông Mỹ chưa quát tháo gì mà ông Sĩ đã hồi hộp, mồ hôi như rịn cả ra dù trong điều kiện không khí mát lạnh.
Xem xong các giấy tờ một cách thành thạo và nhanh chóng, ông hải quan Mỹ nhìn ông Sĩ và nói:
- Welcome to USA.
Ông Sĩ chẳng hiểu gì, hồn vía lên mây, vội vàng lục túi áo, túi quần, thì chị Việt Nam đứng cạnh bên ngạc nhiên hỏi:
- Bác tìm gì thế?
Ông ghé tai chị Việt Nam nói nhỏ:
- Chẳng biết ông hải quan Mỹ hạch họe gì, giấy tờ tôi đủ cả, thôi cứ biếu tiền cho xong chuyện. Ở đây họ có tiêu tiền Việt Nam không?
Chị Việt Nam bật cười như vừa bị ai thọc vào nách:
- Bác ơi là bác, ai hoạch họe gì bác, ông hải quan nói lời chào mừng bác vào đất nước Mỹ đấy.
Ông Sĩ ngạc nhiên kêu lên:
- Thế à? Ai quen biết gì nhà ông ấy mà chào mừng nhỉ …
- Thì họ lịch sự xã giao mà bác.
Giây phút này ông Sĩ nhớ ngay đến bộ mặt trơ trơ lạnh lùng và cách ăn nói hỗn hào, trịch thượng của anh hải quan ở phi trường Nội Bài, anh ta là người Việt Nam, đáng tuổi con cháu ông mà cư xử với ông còn thua ông hải quan người Mỹ khác giòng, khác giống này nữa.
Chị Việt Nam giục:
- Thôi bác cất giấy tờ kẻo rơi mất và ra ngoài đi, chắc người nhà bác đang đợi bên ngoài đấy…
Ông Sĩ hớn hở khóac túi xách lên vai, tay còn lại xách cái túi lớn và đi theo dòng người ra ngoài…
Ông đi từ ngơ ngác này đến ngơ ngác kia khi nhìn cảnh và người xung quanh, cho đến khi cả đám thân nhân chạy ùa ra đón ông:
- Anh Sĩ đấy à? Em là Nguyễn văn Tượng đây…
- Chào bác Sĩ, chúng cháu là con ông Tượng.
Ông không thể nào nhận ra thằng Tượng em ông ngày xưa, ông từng cõng nó trên vai dù hai anh em suýt soát tuổi nhau, bây giờ nó bệ vệ hồng hào, khiến ông phải thốt lên:
- Giời ạ, chú Tượng mà tôi cứ tưởng ai, dù nhìn hình rồi mà tôi vẫn không nhận ra chú, trông cứ như tổng giám đốc hay thủ trưởng cơ quan ở thủ đô Hà Nội. Nhưng sao chú vẫn nhận ra tôi, hở?
Ông Tượng thành thật:
- Dĩ nhiên là qua hình anh gởi, nhưng nhìn thấy một ông Bắc kỳ ngơ ngác giữa phi trường Los. này thì không ai ngoài anh.
Ông Sĩ vẫn chưa tỉnh cơn mê:
- Người ở đâu mà lắm thế ! cứ ồn ào và nhốn nháo như tôm tươi nhảy trong rổ …
Mọi người lên xe hơi để về nhà, vì con cháu ông Tượng ra đón đông nên phải đi làm ba xe làm ông Sĩ thầm thán phục khi biết chúng nó đứa nào cũng có ô tô riêng.
Ông chợt nhớ ra vội dặn dò con ông Tượng:
- Này các cháu, chạy xe cẩn thận nhé kẻo xe bốc cháy như ở Việt Nam đấy.
Ông Tượng trấn an lại ông anh:
- Anh đừng lo, hiện tượng xe gắn máy và xe hơi bốc cháy chỉ có ở Việt Nam, chắc vì xăng dầu bị pha chế do lòng tham của con người mà ra thôi.
Xe hơi chở ông Sĩ từ phi trường Los Angeles đi vù vù qua những con đường, lên đến highway 405 song song là 6 hàng xe làm ông Sĩ không tin vào mắt mình, ông cẩn thận đếm đi đếm lại mấy lần. Trên đầu ông cũng là cầu highway, ông nhìn phía trước, những đường cầu highway chạy dài chồng chất hai ba tầng, tạo thành những đường cong uốn lượn, chỗ cao chỗ thấp vừa hoa mỹ vừa hiện đại với dòng xe cộ nườm nượp mà chóng cả mặt.
Đường xá ở Mỹ sao mà cao siêu và vĩ đại thế, nơi đâu cũng toàn xe là xe, đông như đi chảy hội, mà tuyệt nhiên ông Sĩ không nghe một tiếng còi xe nào, chả bù cho tại Việt Nam, chỉ phố huyện của ông thôi mà xe cộ ngược xuôi, xe nọ qua mặt xe kia, bất chấp ai trước ai sau và còi xe thì luôn kêu inh ỏi để người ta biết mà tránh né nhau, chứ đèn đường hay dấu hiệu luật lệ giao thông chẳng hiệu quả gì, hình như chỉ để phô trương và triển lãm, đến nỗi người ta có cảm tưởng rằng nếu xe không có còi thì đừng hòng ra đường.
Ông Sĩ phải thốt lên:
- Sao mà nhiều cầu vượt đến thế, sao mà nhiều xe cộ đến thế? chỉ riêng nước Mỹ này đã ngốn hết bao nhiêu xăng dầu của thế giới rồi còn gì !
Qua khỏi cầu highway 405, xe chở ông Sĩ đang đi vào một thành phố, rồi đến những khu đường vắng vẻ dần, khi xe dừng lại trước một bảng hiệu stop màu đỏ khá lâu thì ông Sĩ ngạc nhiên hỏi ông Tượng:
- Sao ngừng lâu thế?
- Bảng “Stop” là phải ngừng hẳn xe anh ạ.
- Ối giời, bảng gì thì bảng, nhưng chỗ này vắng vẻ không có ai thì ta cứ linh động mà đi chứ ngừng làm gì cho phí thì giờ?
- Luật lệ ở Mỹ ai cũng phải tôn trọng, dù là lúc nửa đêm không một bóng người cũng vậy.
Ông Sĩ gật gù khen:
- Ở Mỹ thật là tự giác, chả bù cho ở Việt Nam ta cứ làm liều cho đến khi bị phát giác.…
Những khu nhà cư dân hiện ra, ông Sĩ thất vọng khi nghĩ nhà em trai mình ở một nơi vắng vẻ như thế này chắc không khá giả gì. Ông Tượng như đọc được ý tưởng trong đầu ông anh, bèn giải thích:
- Nhà em ở trong khu này, một trong những khu vực nhà cửa có gía của California .
Ông Sĩ hỏi lại:
- Ở nơi hiu quạnh thế này mà lại đắt đỏ thế kia à?
- Vâng, ăn thua địa thế, nhà trên đồi, trên núi còn đắt hơn nhà dưới mặt đất. Chỉ những ai tiền triệu trở lên mới mua nổi nhà trên ấy thôi.
- Lạ nhỉ, ở Mỹ cái gì cũng ngược đời, ở quê mình, đồi núi bỏ không, làng xã phải khuyến khích người dân lên phát quang làm rẫy trồng khoai sắn tăng gia vì lúa gạo không đủ ăn, chứ làm gì có chuyện dọn lên đồi, lên núi mà ở cho hoang lạnh lẻ loi.
Ông Tượng kể thêm:
- Nhà ở càng gần biển càng đắt, nhất là những căn nhà sát ngay bờ biển.
- Ối giời, ở Việt Nam chỉ những nhà nghèo mới ở sát biển, đối diện với sóng gío làm hao mòn nhà cửa, biển lấn đất liền có ngày nuốt chửng cả nhà và người chứ qúy hóa gì.
Ông Tượng hỏi thăm sang chuyện nhà :
- Nghe nói thằng út nhà anh làm việc ở công ty gì trên huyện, có khá không ?
- Chỉ “túc tắc” thôi. Được mỗi ưu điểm là khỏi chân lấm tay bùn như làm ruộng.
Ông Tượng ngạc nhiên:
- Anh nói “túc tắc” là gì? Em không hiểu…
- Là công việc lằng nhằng tạm đủ sống qua ngày. Trước anh có cho nó học tiếng Trung mà không xin được việc làm ở thành phố đành về làm công nhân phố huyện vậy.
Ông Tượng lại hỏi và chép miệng than thở:
- Tiếng Trung là gì? Việt Nam bây giờ nói nhiều từ lạ qúa em không hiểu nổi…
Ông Sĩ giải thích:
- Cuộc sống tất bật qúa nên người ta phải nói tắt và hình tượng cho nhanh hiểu chú ạ. Tiếng Trung là Trung quốc, còn Singapore thì gọi là “Sing” cho ngắn gọn, chú hơi đâu mà lăn tăn. À, hai từ “Lăn tăn” là hình tượng đấy, nghĩa là chú cứ để tâm hồn thanh thản như dòng nước bình lặng, đừng suy nghĩ, thắc mắc như khi dòng nước gợn sóng lăn tăn. Hiểu chưa?
Ông Tượng trả lời mà nét mặt vẫn còn hoang mang:
- Vâng, em sẽ cố gắng hiểu.
Về đến nhà, sau vài phút chào mừng thăm hỏi nhau rối rít, ông Sĩ lại lục đục với mớ hành lý, lôi ra giấy tờ và nghiêm chỉnh nói với em:
- Chú đưa anh ra công an khu vực khai tạm trú cho xong việc đã….
Ông Tượng bật cười không khác gì chị Việt Nam lúc nãy ở phi trường Los Angeles:
- Ở Mỹ không ai xét hỏi giấy tờ anh đâu.
Ông Sĩ không tin:
- Chú nói thế nào? Nếu công an khu vực không xét giấy tờ, thì chú cứ dẫn anh ra chào họ một tiếng cho phải lẽ, sau này họ không kiếm cớ bắt bẻ, làm tiền mình chú ạ…với lại chị có dự trù sẵn một ký chè Thái Nguyên để biếu họ đây.
Ông Tượng ngưng cười, cũng nghiêm chỉnh để giải thích:
- Nước Mỹ không có anh công an khu vực, không ai phải khai tạm trú tạm vắng. Họ đã xét giấy nhập cảnh của anh ở cửa khẩu phi trường, thế là xong.
- Thế anh đi ngoài đường họ có xét hỏi giấy tờ không?
- Không tin ngay bây giờ anh cứ ra đường đi khơi khơi xem có ai biết anh mới vừa đến Mỹ không? Ngay cả người hàng xóm bên cạnh cũng không hề biết nữa là…
Ông Sĩ vẫn ngơ ngác:
- Thật thế ư? Chẳng lẽ người Mỹ lại sơ hở thế? quản lý đất nước và con người lỏng lẻo đến thế?
Ông Sĩ ngồi thừ người vì chưa hết sửng sốt, cả đời ông quen thuộc với nếp sống xã hội chủ nghĩa, đã ngấm vào thịt da xương tủy ông những thủ tục, luật lệ, nên ông tưởng nó theo ông dù ông đi đâu, đến đâu.
Hôm nay, ông là một cựu chiến binh cộng sản, cựu kẻ thù của Mỹ, kẻ đã một thời từng mong tiêu diệt những lính Mỹ trên quê hương Việt Nam, theo đúng câu tuyên truyền “Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” đang chễm chệ ngồi ngay trong lòng nước Mỹ, vậy mà không hề bị họ để ý, nghi ngờ hay làm khó khăn gì cả, qủa là chuyện lạ lùng.
Buổi chiều, ông Sĩ ăn cơm cùng gia đình ông Tượng, có cả các con ông Tượng ở gần đấy sang chơi, trò chuyện đủ thứ. Gia đình ông Tượng bàn nhau kế hoạch sẽ đưa ông Sĩ đi chơi những nơi trong thành phố, rồi đi thăm thân nhân khác, tại những thành phố hay tiểu bang khác. Thật là nồng nhiệt, thân tình và vui vẻ.
Tối hôm đầu tiên nằm ngủ ở Mỹ, trong nhà của em trai mình, trong một căn phòng riêng sạch sẽ đầy đủ tiện nghi, giường nệm, chăn gối thơm tho, phòng tắm, cầu tiêu ngay bên cạnh, ông Sĩ tưởng như mình lạc vào cõi mộng nào.
Bao nhiêu năm đời bộ đội nằm bờ bụi, đói khổ, hết chiến tranh thì về quê, cảnh nhà nghèo nàn túng thiếu, ông nào biết có những cảnh đời tiện nghi sung sướng như thế này, ông Sĩ ao ước giá mà bà vợ cùng đi với ông để cùng được hưởng, vì mai kia ông có kể lại chắc gì bà ấy hình dung ra được
Ông thao thức mãi chưa ngủ được, phần vì thay đổi giờ giấc, phần vì lạ nhà, lạ cảnh. Ông lan man nhớ lại lúc ở phi trường Los. Anh hải quan đã tin cậy lời ông, một người xa lạ, mới gặp lần đầu một cách dễ dàng mà không xét hỏi thêm gì về hành lý của ông cả.
Ông chạnh lòng nhớ đến chuyện xa hơn, sau ngày đất nước hoà bình, ông Sĩ làm đơn xin hưởng lương hưu cựu chiến bình. Từ làng xã, đến các đơn vị đều biết ông bao năm đi bộ đội, vậy mà người ta hành hạ ông phải chạy từ quê lên huyện, lên thành phố, trở về đơn vị cũ, gặp thủ trưởng xưa, xin bao nhiêu chữ ký, bao nhiêu thứ xác nhận chòng chéo, vòng vo đến dư thừa thì họ mới cho hoàn tất hồ sơ.
Bao nhiêu công lao và xương máu của ông đã đổ ra trong chiến tranh, mà chút quyền lợi đền bù cho ông sao nhiêu khê, khó khăn đến thế !
Lòng ông lại chập chờn những nỗi vui buồn, vui vì anh em ông có ngày đoàn tụ nhìn thấy nhau, ông sẽ có mấy tháng rong chơi ở nước Mỹ to đẹp này, buồn vì ông thấy hai cảnh đời khác biệt.
Gia đình ông Tượng sang Mỹ, 3 đứa con đều ăn học thành tài cả, đứa nào cũng có bằng cấp đại học trở lên, có nhà cửa riêng, còn gia đình ông Sĩ cũng 3 đứa con thì 2 đứa lớn theo nghiệp cha ông làm ruộng, cuộc sống nghèo nàn lam lũ chẳng biết đời nào mới ngóc đầu lên nổi, thằng út đậu xong cái bằng phổ thông trung học, ông đã tìm cách cho nó thoát ly cảnh đồng ruộng, để cuộc đời đỡ vất vả, xin làm công nhân ở một hãng sản xuất đồ gốm trên huyện mà cũng tốn bao nhiêu công phu nhờ cậy giới thiệu và đút lót qùa cáp mới được nhận vào.
Ông ngậm ngùi thầm trách bố ông sao ngày xưa không đem cả vợ con đi, mà kẻ trước người sau cho mộng đời dang dở, thì ngày nay cha con ông chắc cũng chẳng thua kém gì cha con ông Tượng.
Bố ông yêu thích môn cờ tướng, chơi cờ tướng giỏi, vậy mà ván cờ cuộc đời ông chỉ tính sai một nước cờ mà thiệt thòi cả mấy đời người.
Hết nghĩ chuyện nọ đến chuyện kia, ông Sĩ bỗng lo xa khi nghĩ đến 3 tháng du lịch ở Mỹ rồi sẽ trôi qua, ông sẽ trở lại Việt Nam, đối diện với cảnh sống nghèo nàn thường lệ, và trước mắt là đối diện với cuộc hành trình trở về từ Mỹ.
Xưa nay ông đã quen bị đối xử bất công trong mọi tình huống của cuộc sống rồi, có bị quát, bị mắng cũng chai đá rồi.
Nhưng từ phi trường ở Nhật Bản đến phi trường ở Mỹ ông đã được đối xử một cách công bằng, lịch sự, hoàn toàn khác biệt ở phi trường Nội Bài, ông chợt thấy một thế giới khác tử tế hơn nơi ông sinh ra và lớn lên cho đến bây giờ.
Trời ơi, lượt về ông sẽ gặp lại những bộ mặt từ chuyến bay hãng hàng không Việt Nam ấy, đến phi trường Nội Bài gặp mấy đứa hải quan ấy, mà ông thêm ngao ngán…
Ông chỉ muốn chúng nó biến mất trong đầu óc ông để ông ngủ yên tối nay và thoải mái tận hưởng những ngày du lịch một đất nước lạ đời và thăm lại các người thân sau bao nhiêu năm dài xa cách.
Nguyễn Thị Thanh Dương.

Saturday, August 25, 2012

Thơ: Hôm Ấy


HÔM ẤY.
Hôm ấy anh đã đến thăm em,
Chiều xuống thành phố vừa lên đèn,
Anh đến như một vì sao lạc,
Vào hồn em giữa bầu trời đêm.
Em đã gặp anh đầu phố kia,
Vượt bao dặm đường từ nơi xa,
Anh đi trên những con đường lạ,
Những thành phố nào anh đã qua.
Và anh đã dừng chân ở đây,
Phút đầu tiên anh mở vòng tay,
Chào đón em niềm vui tao ngộ,
Đường vắng lá cuối mùa Thu bay.
Hôm ấy cuối Thu hay đầu Đông?
Giữa hai mùa có em và anh,
Giữa đường có hai người ngơ ngác,
Ấm tay nhau gío lạnh vây quanh.
Anh gọi tên em như giấc mơ,
Trong ánh đèn đường soi bóng mờ,
Mái tóc anh rối bời vì gío,
Lòng em rối bời vì bất ngờ.
Hôm ấy anh cũng rời xa em,
Quán nửa khuya về sáng buồn tênh,
Nắm tay rồi chia tay anh nhé,
Tình chơi vơi giữa ngày và đêm.
Anh đã quay trở về nơi kia,
Cũng như em đã trở về nhà,
Hôm ấy anh là vì sao lạc,
Ra khỏi đời em, anh rất xa.
Nguyễn Thị Thanh Dương







MẸ NGOÀI ĐƯỜNG, NGÒAI CHỢ.
Mẹ vất vả từ bao lâu rồi?
Tuổi gìa vẫn chưa được nghỉ ngơi,
Chợ xa, quang gánh mẹ dậy sớm,
Sợ không kịp họp chợ đông người.
Mẹ đi khi trời còn mù sương,
Đường quê tất tả đôi chân không,
Lưng còng, vai lạnh vươn trong gío,
Đường mẹ đi có bùn lấm chân.
Đôi chân trần chịu khó, chịu thương,
Đất quen chân mẹ, mẹ quen đường,
Đường quê, đường chợ đi bao lượt,
Mẹ giữa chợ đời, giữa bán buôn.
Mẹ vất vả từ thuở đôi mươi,
Tuổi gìa vẫn chưa được thảnh thơi,
Gánh hàng và mẹ bên hè phố,
Mưa về hắt ướt chỗ mẹ ngồi.
Mẹ ngoài đường nhiều hơn ở nhà,
Mời chào khi có bước ai qua,
Hôm nào đắt hàng mẹ về sớm,
Hàng ế mẹ ngồi cho đến khuya.
Giờ này ai đã ngủ trên giường,
Ai ấm trong mái nhà yêu thương,
Lặng lẽ mẹ về trong ngõ hẹp,
Đường mẹ về bóng tối vây quanh.
Mẹ gìa với một gánh hàng rong,
Phố nọ, phố kia mẹ mỏi chân,
Chắc gì được no cơm ấm áo?
Mẹ chắt chiu kiếm lời từng đồng..
Đồng lời mua con cá, bó rau,
Góp với cháu con trong cảnh nghèo,
Còn sức lực mẹ còn bươn chải,
Đường mẹ về có nắng mưa theo.
Mẹ chưa nghỉ ngơi, mẹ đảm đang,
Lưng mẹ còng không vì thời gian,
Mẹ gánh cả cuộc đời vất vả,
Chỉ nghỉ ngơi giấc ngủ ngàn năm.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( August, 17, 2012)







ĐƯỜNG BIÊN GIỚI.
Đường biên giới,
Việt Nam - Trung Quốc,
Lợi dụng tình hữu nghị giúp đỡ Việt Nam,
Trung Quốc xây dựng những công trình,
Hay đưa dân sang nhập cư canh tác,
Để chiếm đất.
Những phần đất Việt Nam bị mất,
Hồn tổ tiên, sông núi cũng đau lòng.
Nhưng đường biên giới,
Ngày ấy vẫn thắm thiết tình,
Ải Nam Quan,
Thành Hữu Nghị Quan,
Đẹp biết bao tình láng giềng, đồng chí.
Miền Bắc Việt Nam từng được Trung Quốc giúp đỡ,
Trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương và Việt Nam.
Mây trời từ Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn,
Mây cũng trôi qua bên kia biên giới,
Gío từ Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu,
Gió cũng thổi qua bên kia biên giới,
Người dân hai bên gần gũi.
Đứng núi bên này trông thấy núi bên kia.
Nhưng cuộc chiến tranh biên giới đã xảy ra,
Năm 1979 đầy tang tóc,
Trung Quốc chuyển bạn thành thù,
Tấn công Việt Nam,
Chiếm thêm đất,
Thêm những cột mốc biên giới bị lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam,
Đường biên giới đau thương !
Đường biên giới máu xương !
Thị xã Cao Bằng,
Một trong những nơi bị quân Trung Quốc tấn công và phá hoại….
Có dòng sông Quây Sơn vẫn chảy,
Có thác Bản Giốc bị chia hai, *
Nửa bên này thương nhớ nửa bên kia,
Cột mốc số 53,
Bị di dời nằm bơ vơ,
Bên núi cao,
Bên dòng sông trên thác Bản Giốc.
Chắc là cột mốc 53 đã khóc !
Đường biên giới,
Nay lại là tình bạn,
Nhưng người bạn lớn vẫn nhiều mưu mô, tính toán,
Người ta qua lại buôn bán,
Từ Trung Quốc,
Những nông lâm sản quế, hồi, trái cây, rau qủa…
Những mặt hàng công nghiệp gía rẻ,
Làm thiệt hại nền kinh tế Việt Nam.
Họ tuồn sang,
Bao món hàng độc hại,
Hàng kém chất lượng và hàng gỉa,
Đường biên giới,
Người ta vận chuyển mua bán ma túy,
Mua bán cả con người.
Những phụ nữ Việt Nam bị lừa sang Trung Quốc,
Làm vợ hay làm nô lệ tình dục,
Cổng Hữu Nghị Quan vẫn còn,
Mà đường về quê sao qúa xa xăm?
Đường biên giới của lòng tham và tội ác.
Tìm đâu chút mộng mơ, lãng mạn ?
Đường biên giới nào ?
Có chiếc cầu trong bài hát của Phạm Duy:
“Bên cầu biên giới,
Tôi lặng nghe dòng đời,
Từ từ trôi..”
Đường biên giới phía Bắc quê hương tôi ơi !!!
Nguyễn Thị Thanh Dương
( Augs.-2012)
* Thác Bản Giốc chia hai theo hiệp ước biên giới giữa 2 nước, năm 1999.


VẠN NẺO ĐỜI.
( Tặng Như Thương tác gỉa thi tập “Thượng Đế Lỡ Tay”)
Cho dù Thượng đế lỡ tay,
Vạn nẻo đời chẳng có ai tương phùng,
Nhưng chưa đi hết cội nguồn,
Biết đâu có lúc cuối đường gặp nhau?
***********
Có thể ta đi chung một con đường?
Nhưng hai chúng ta không hề quen biết,
Anh đi phía sau, em đi phía trước,
Dửng dưng nhau mỗi ngã rẽ lối về.
Một con đường mà khoảng cách rất xa,
Anh như buổi chiều em như buổi sáng,
Anh hướng Tây Nam, em về Đông Bắc,
Đường ngược chiều nên không thể gặp nhau.
Có thể ta đã chung một niềm đau,
Anh trống trải như lữ hành lạc hướng ,
Còn em buồn ở một chân trời khác,
Người xa người như tăm cá bóng chim.
Và cả khi niềm vui đến với em,
Trong cuộc sống không dễ gì chia sẻ,
Anh ở đâu? tâm hồn em khép mở,
Ngọn gío tình không có chỗ dừng chân.
Cuộc đời chỉ là trò chơi trốn tìm,
Không thể gặp đúng người ta muốn gặp,
Bao người lạ đã trở thành quen biết,
Bao tâm hồn trót hợp lại ly tan.
Cuộc đời chỉ là tất bật đám đông,
Ta đối diện nhìn nhau trong khoảnh khắc,
Em và anh chưa bao giờ là bạn,
Em là trăng, anh mây hững hờ trôi..
Thì ra ta đã đi qua vạn nẻo đời,
Đã hăm hở đi tìm ai phía trước,
Đã thất vọng khi quay về dĩ vãng,
Nhưng chưa bao giờ gặp một người thương.
Chẳng có duyên nên vẫn là tha nhân,
Ta vẫn đi những con đường riêng lẻ,
Nếu chung đường vẫn vô tình như thế,
Vạn nẻo đời có lẽ chẳng gặp nhau ???
Nguyễn Thị Thanh Dương
( July, 19, 2012)












BÁM BIỂN.
Những con tàu đánh cá ngoài biển khơi,
Mỗi ngư dân hào hùng như chiến sĩ,
Trong tay họ không súng đạn, vũ khí,
Chỉ có tình yêu biển, tình yêu quê.
Mồ hôi ngư dân rơi xuống biển xa,
Tay kéo lưới, tay chèo cùng sóng dữ,
Tay căng buồm khi con tàu nghiêng ngả,
Tay che nắng về, tay hứng hạt mưa..
Biển của ta, vùng Hoàng Sa, Trường Sa,
Cá từ nơi này theo ta về bến,
Ta quen bao lần con đường ra biển,
Ta quen bao mùa sóng gío đầy vơi.
Vùng biển Hoàng Sa cha ông bao đời,
Thời nhà Nguyễn đạo binh đi cắm mốc,
Thuyền bè thô sơ người đi sống chết,
Xác định chủ quyền vùng biển Việt Nam.
Ngày nay bao chiến sĩ đã hi sinh,
Để bảo vệ chủ quyền trên biển đảo,
Ngư dân bám biển mưu sinh cơm áo,
Đối diện biển khơi, đối diện hiểm nguy.
Bị quân Trung Quốc bắt giữ, giết đi,
Giọt máu oan khiên thấm vào biển mặn,
Hồn oan khiên lạc đường về vất vưởng,
Hoàng Sa, Trường Sa khóc giữa biển sầu.
Những ngư dân là người lính dãi dầu,
Thuyền đạp sóng như khi chân đạp đất,
Biển của ta dù bạo quyền xâm lấn,
Bờ là nhà, biển nước cũng là nhà.
Nhưng có khi tàu thuyền giữa phong ba,
Biển thân yêu là chiến trường bất trắc,
Sóng biển bạc đầu một màu tang trắng,
Sinh nghề tử nghiệp biển khóc mưa gào.
Ngư dân chết biển. Hồn ơi, hồn ơi !!
Hãy nương theo sóng về quê quán cũ,
Nhập xác gỉa này nằm trong mộ gío,*
Biển gần kề. Hồn bám biển trăm năm.
Nguyễn Thị Thanh Dương
* Mộ gío là mộ không có xác người, chỉ có hình nhân làm bằng đất sét, người thân làm lễ gọi hồn người chết mất xác trên biển về nhập vào xác gỉa này và an táng nghi lễ như thông thường.



MIẾNG NGON, MIẾNG SẦU.

Những ngày tôi thơ ấu,
Trong tay mẹ nâng niu,
Những món ăn mẹ nấu,
Là món ngon trong đời.
Bát nước rau muống luộc,
Đập nhánh tỏi thơm vào,
Chút muối, cà chua chín,
Chan cơm, ngon biết bao ! .
Canh cua nấu mồng tơi,
Ăn với cà muối xổi,
Những bát cơm đầy vơi,
Công mẹ cha tần tảo.
Đậu hũ chiên quen thuộc,
Tôm đất rim đậm đà,
Đọt bầu xào tỏi ớt,
Thịt kho nước màu dừa.
Ngon cả miếng cơm cháy,
Chan nước mắm mỡ hành,
Hay ăn bát cơm nguội,
Cá kho mặn mấy lần.
Bây giờ không còn mẹ,
Tôi đã lớn khôn rồi,
Món xưa vẫn còn đó,
Nhưng thiếu tình mẹ tôi.
Vì khi tôi nhớ mẹ,
Miếng ngon thành miếng sầu,
Món quen thành món lạ,
Giờ biết tìm ở đâu?
Nguyễn Thị Thanh Dương




HỘI AN TRONG MƯA.
( Theo hình ảnh “Hội An trong mưa” )
Hội An chìm trong cơn mưa dầm,
Buổi chiều âm u, chiều sắp tàn,
Nhô trên mái ngói nhà màu xám,
Những hàng giây điện nằm giăng ngang.
Người đi, người về trong phố ướt,
Sợi mưa theo người đi từng bước,
Mưa rơi lả tả trên nón lá,
Trên chiếc dù che hay áo khóac.
Gánh Cao Lầu rong băng qua đường,.
Hàng ế chiều nay cô bán hàng,
Không nơi dừng chân đặt quang gánh,
Cao Lầu trong mưa cũng biết buồn.
Lẫn trong tiếng mưa có tiếng rao:
“Ai ăn Chí Mà Phù nóng nào?”,
Bước chân người về trong ngõ hẹp,
Tiếng rao kia vẫn còn vọng theo.
Bên hiên phố người đứng đợi mưa,
Hay tìm hơi ấm quán cà phê,
Hè phố lát gạch Tàu màu đỏ,
Vài chiếc lá rơi nằm bơ vơ. .
Trước những cửa hàng đèn lồng thắp,
Soi bóng xuống mặt đường mờ nhạt,
Lơ lửng đèn lồng chao theo gió,
Bóng cũng chập chờn, bóng hiu hắt.
Nhưng có cửa hàng nghỉ bán sớm,
Mặc ai qua, lạnh lùng cửa đóng,
Ngoài hiên giàn hoa leo vẫn đẹp,
Hoa đẹp trong mưa, trong cuộc sống.
Phố cổ Hội An mưa nhạt nhòa,
Người Hội An vẫn nhớ đường về,
Du khách bỗng thấy mình lạc bước,
Bỗng thấy cô đơn nỗi nhớ nhà.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( June, 18, 2012)






NƯỚC MẮT ĐÀN BÀ.
Không phải ai cũng hiểu,
Giọt nước mắt đàn bà,
Khóc cho lòng gian dối,
Khóc gỉa dối điêu ngoa.

HAI DÒNG SÔNG GẶP NHAU.
( Tặng VTTG)
Hai giòng sông xa lạ,
Dù bắt nguồn nơi đâu,
Dù hai miền cách trở,
Vẫn có thể gặp nhau.
Con sông này quanh co,
Qua rừng sâu, núi thẳm,
Trải lòng theo nắng mưa,
Một mình nơi hoang vắng..
Con sông kia vươn mình,
Chảy lên vùng đồi cao,
Xuôi về vùng đồng bằng,
Qua thành phố lao xao.
Hai dòng sông không quen,
Không hẹn hò chung lối,
Hai tâm hồn dửng dưng,
Gặp nhau không mong đợi.
Nơi đầu tiên gặp gỡ,
Hai dòng sông khác màu,
Hai tâm hồn bỡ ngỡ,
Sẽ hòa hợp vì nhau.
Chúng mình không là sông,
Mà đời trôi khắp hướng,
Đã bao mùa nước dâng?
Đã bao mùa nước cạn?
Những người mình không thương,
Vẫn tình cờ gặp lại,
Và có những nẻo đường,
Gần mà xa xôi đấy.
Anh và em không lạ,
Một thời tình đã trao,
Bây giờ chia đôi ngã,
Biết bao giờ gặp nhau ??

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( June,14, 2012)








NGÀY CHIẾN SĨ TRẬN VONG.
Lá cờ Mỹ trên nửa cột cờ sáng nay,
Gắn trên xe hay cắm trên mặt đất,
Giữa bận rộn, ồn ào của cuộc sống,
Một chút buồn về vào cuối tháng Năm.
Tại nghĩa trang quốc gia Arlington,
Niềm thương tiếc đến với từng ngôi mộ,
Cắm lên đó mỗi lá cờ Mỹ nhỏ,
Làm bạn với hồn chiến sĩ trận vong.
Ôi, những người ra đi trong chiến tranh !
Vì lý tưởng tự do và dân chủ,
Bao mồ hôi và máu xương đã đổ,
Trên các chiến trường, quốc gia khác nhau.
Có những người chết ở quê hương tôi,
Quê hương Việt Nam một thời khói lửa,
Tôi gởi lời thương, lời cám ơn theo gió,
Đến thăm từng người, từng mộ bia kia.
Tôi theo gió thăm bức tường đã ghi,
Tên 58,000 người tử sĩ,
Đã cùng chúng tôi, những người lính Mỹ,
Tên các anh và lịch sử còn đây.
Và đến với những người lính chúng tôi,
Những mộ bia ở quê nhà xiêu lạc,
Những mộ bia không còn hương khói thắp,
Cuộc chiến đã tàn hồn tử sĩ chưa yên.
Dù có tên hay chiến sĩ không tên,
Họ đã chết cho niềm tin, danh dự,
Hỡi người lính Việt Nam, hỡi người lính Mỹ,
Xin hãy yên nghỉ nơi hoà bình vĩnh cửu.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Kỷ niệm Memorial Day, thứ Hai, May, 28, 2012)












MUỐI MẶN.
Hạt muối mặn được lấy lên từ biển,
Đơn giản mà thấm thía những mồ hôi,
Mồ hôi cũng mặn như muối. Muối ơi!
Từ sức người nhọc nhằn trên thửa ruộng.
Những đống muối vun cao mùa thu họach,
Nằm phơi mình trên ruộng muối biển quê,
Muối đầy hai thúng nặng chĩu đường về,
Nặng chĩu trên vai người gìa, người trẻ.
Hạt muối công lao, mà tầm thường thế,
Tôi vẫn thường gặp trong mỗi bữa ăn,
Món nào nhạt thêm muối sẽ thấy ngon,
Tôi chưa bao giờ biết ơn muối mặn.
Muối trộn tiêu, ớt…Người ăn lạ miệng,
Muối ướp thực phẩm: thịt, cá… tươi lâu,
Muối với dưa, cà, khô, mắm nhà nghèo,
Nuôi ta lớn có mặn mà của muối.
Món ăn nào, khắp nơi trên thế giới,
Cũng không thể thiếu những hạt muối đâu !
Muối vào ngõ hẻm đến phố đẹp giàu,
Muối qúy hiếm với người miền rừng núi.
Tôi dùng hàng ngày, qúa quen với muối,
Vẫn làm rơi vãi mà lòng thờ ơ,
Phung phí đi bao giọt biển hong khô,
Bao hi vọng nắng về cho muối tốt.
Nhưng hạt muối hôm nay tôi nghĩ đến,
Bỗng thương vô cùng vị mặn biển khơi,
Giọt biển hóa thành hạt muối nhỏ nhoi,
Vẻ đẹp chân phương đơn sơ màu trắng.
Ca dao có câu “Gừng cay, muối mặn”,
Tình nghĩa vợ chồng gắn bó dài lâu,
Dù hoàn cảnh nào đừng phụ tình nhau,
Chia sẻ khi mặn nồng, khi cay đắng. .
Nguyễn Thị Thanh Dương
( May, 2012)
..


NGƯỜI MẸ THÀNH ĐẠT.
Mẹ mặc váy áo thời thượng ra đường,
Đi dự tiệc tùng những nơi sang cả,
Mỹ phẩm lừng danh, ví tay đắt gía,
Mẹ sẽ là ngôi sao sáng đêm nay.
Mẹ bước vào xã hội chẳng thua ai,
Là giám đốc, là kỹ sư, bác sĩ…
Dưới quyền mẹ có nhân viên kính nể,
Trong sở làm có bè bạn tin yêu.
Mẹ là doanh nhân thành đạt, tiền nhiều,
Là khoa học gia bay lên vũ trụ,
Mẹ đọc diễn văn, mẹ làm chính trị,
Về nhà vẫn là người mẹ đời thường. .
Mẹ gây dựng nên nhà cửa cao sang,
Mẹ hào nhoáng và cũng đầy bản lĩnh,
Từ hai bàn tay và từ tim óc,
Người phụ nữ trẻ thành công đường đời.
Nhưng sau khi xong công việc bên ngoài,
Sau những xã giao lụa là khoe sắc,
Mẹ trở về nhà với điều đơn giản,
Với hạnh phúc là mẹ của các con.
Ở trong nhà mình mẹ chẳng chức danh,
Ngoài hai tiếng bình thường “Người mẹ”,
Mẹ không thể thuê ai làm điều đó,
Không ai yêu con bằng mẹ yêu con.
Người giúp việc chỉ bồng bế, chăm nom,
Hay nấu cho con bữa cơm ngon miệng,
Nhưng khi con buồn, khi con đau ốm,
Mẹ mới là người lo lắng xót xa.
Nếu phải đánh đổi những lợi danh kia,
Những địa vị mà người đời ngưỡng mộ,
Để con khôn lớn vào đời tử tế,
Mẹ vui lòng làm người mẹ không tên.
Mẹ trí thức hay mẹ bán hàng rong,
Mẹ thành thị hay mẹ quê chân đất,
Mẹ đại gia hay mẹ nghèo xơ xác,
Tình mẹ sông dài, biển rộng như nhau.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Mother’s Day- 2012)







ĐÀ LẠT ƠI, TÌNH ƠI …
Đà Lạt có những con đường sắc vàng,
Của hoa Dã Qùy chạy dài lang thang,
Em đạp xe qua buổi chiều se lạnh,
Em mặc áo dài, em khoác áo len.
Em đi trên con đường đất khô bùn,
Vẫn hoa Dã Qùy mọc đầy hai bên,
Về con đường khác có hoa Cúc trắng,
Hoa khắp nẻo đường cho người bâng khuâng.
Mỗi góc Đà Lạt là một góc hoa,
Hoa mọc trong rừng, hoa trong vườn nhà,
Hoa trên hè phố, giòng đời chậm lại,
Phượng Tím đẹp buồn ai nỡ bước đi?
Đôi bóng kề vai bên Hồ Xuân Hương,
Buổi sáng quanh hồ vắng đến lạ thường,
Em ngồi trong quán ly cà phê ấm,
Mà hồn em còn lãng đãng mù sương.
Con đường quanh co thấp thoáng rừng thông,
Cành cây che một khỏang trời mênh mông,
Vài cô sơn nữ trên đường xuống núi,
Đường đi còn dài, gùi mang trên lưng.
Triền đồi cỏ xanh, trên trời mây bay,
Đàn bò gặm cỏ thong dong tháng ngày,
Không một bóng người dường như quên lãng,
Vẫn có một nơi êm đềm.thế này.
Nhà dưới đường thấp chìm trong hàng cây,
Nhà trên đường cao chìm vào trong mây,
Mái những ngôi nhà màu nâu, màu đỏ,
Mảnh vườn trước sân hoa cỏ nở đầy.
Em ra phố chợ đỏ mùa dâu tươi,
Thèm ăn qủa dâu chua ngọt trên môi,
Thèm củ khoai lang nướng trên than nóng,
Khoai lang Đà Lạt ngọt như tình yêu.
Đà Lạt nên thơ, Đà Lạt sắc màu,
Ai đến một lần chẳng dễ quên đâu,
Người ơi, tình ơi, về đây hò hẹn,
Gió lạnh, sương mù nên cần có nhau.
Nguyễn Thị Thanh Dương








BIỂN VÀ SÓNG.
( Cảm tác theo hình)
Có phải khi biển vui thì biển sóng?
Sóng tung mình những hạt nước trong veo,
Khoe trên đầu ngọn sóng có em theo
Từng hạt nước và tưởng mình là sóng.
Em đã nở trăm đóa hoa cánh mỏng,
Vừa hiện ra những cảnh sắc nên thơ,
Em lại vội đi như một giấc mơ,
Em rực rỡ cũng chìm vào biển lớn.
Có phải khi biển vui thì biển sóng?
Vươn lên cao những cột sóng thủy tinh,
Thướt tha như vạt áo tuổi thanh xuân,
Sóng và chân trời một màu trắng xóa.
Sóng buông mình thủy tinh rơi vụn vỡ,
Những niềm vui ngắn ngủi đã qua mau,
Sóng hôm qua ai biết đã về đâu?
Chẳng bao giờ sóng đứng yên chờ đợi.
Biển biết vui, biển cũng từng hờn dỗi,
Sóng buổi chiều nhuốm vàng nhạt tà dương,
Giữa biển khơi em là ngọn sóng buồn,
Hát bài tình ca ngậm ngùi thương nhớ.
Sóng khóac cho mình một màu ráng đỏ,
Khi mặt trời sắp lặn xuống biển xa,
Sóng hắt lên những giọt lệ nhạt nhòa,
Em khóc mãi cho biển đầy thêm nữa.
Và có khi biển chuyển mình giận dữ,
Sóng hung hăng kiêu ngạo đến lạ kỳ,
Em không muốn là ngọn sóng chia ly,
Để anh thất tình trên bờ biển vắng.
Sóng ngất ngưỡng từng bước chân chuyển động,
Sóng cuộn mình rồi vội vã lăn xa,
Nước biển tươi xanh bỗng hóa thành gìa,
Sóng bạc đầu vì đời người qúa ngắn.
Em và anh, nếu là biển và sóng,
Em xin được là những ngọn sóng ngoan,
Sóng vỗ về anh, tan biến vào anh,
Vào biển cả một tình yêu bất tận.
Nguyễn Thị Thanh Dương

THÁNG BẢY.
Tháng Bảy đến trời vẫn là mùa Hạ,
Nắng vào nhà, nắng ngoài phố mênh mông,
Nắng và mưa, chuyện thời tiết dửng dưng,
Tôi vẫn chạnh lòng khi mưa thức dậy.
Cũng là mưa, nhưng cơn mưa tháng Bảy,
Sao tôi thấy buồn hơn mưa tháng Sáu?
. Tôi đếm những giọt mưa trên vai áo,
Bao nhiêu giọt mà ướt cả chiều nay?
Mưa như kể chuyện, sợi ngắn, sợi dài,
Những sợi mưa nghiêng nghiêng về trong gío,
Có phải nước mắt Ngưu Lang, Chức Nữ?
Giọt tao phùng, hạnh phúc lẫn khổ đau.
Mưa tháng Bảy chắc từ bờ sông Ngâu?
Nên giọt mưa mới thêm tình, thêm nhớ,
Tội nghiệp ai một mình về qua phố,
Chiếc dù nghiêng che không hết nỗi buồn.
Tháng bảy nhiều mưa không ai kết hôn,
Đời kém vui trong những ngày mưa ướt,
Những người yêu nhau sợ tình ly biệt,
Sợ mưa là những giọt nước mắt rơi.
Nhưng tháng Bảy sẽ có một niềm vui,
Mùa mưa Ngâu cũng là mùa báo hiếu,
Lễ Vu Lan cổng chùa thơm hương khói,
Có những bông Hồng để tặng mẹ yêu.
Bông Hồng đỏ con mừng mẹ sống lâu,
Bông Hồng trắng sẽ là niềm thương nhớ,
Bông Hồng nào cũng là con thương mẹ,
Cài lên áo mình, hoa nói thay lời.
Tháng Bảy mồng 4 là một ngày vui,
Nước Mỹ kỷ niệm mừng ngày Độc Lập,
Cờ Mỹ treo khắp mọi nhà, khắp chốn,
Đêm pháo bông nở đẹp một khoảng trời.
Tháng Bảy đang về, tháng Bảy nắng ơi !
Nếu có mưa đừng ướt lòng nhân thế,
Niềm vui ở lại, buồn chia tay nhé,
Nỗi buồn theo bong bóng vỡ trong mưa.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( July, 2012)













CON YÊU CỦA BỐ.
Con yêu của bố,
Những lúc mẹ đi vắng,
Hay những lúc mẹ bận,
Bố sẽ chăm sóc con như một người mẹ đảm đang,
Bố biết cho sữa vào bình,
Và thêm nước lắc đều trước khi cho con bú,
Bố biết hát,
Ru con vào giấc ngủ,
Tiếng ru của bố,
Của người đàn ông,
Cũng thắm thiết ngọt ngào,
Dù không thanh tao bằng tiếng ru của mẹ.
Bố cẩn thận nâng niu,
Chiếc núm vú giả,
Luôn gần gũi bên con những khi con ngủ hay khi con thức,
Miệng con ngậm núm vú giả thật dễ thương.
Ôi, con là mèo con,
Con là chó con,
Bố yêu con lắm.
Mai con lớn cái bình sữa và núm vú gỉa chỉ còn là kỷ niệm,
Chúng là người bạn của tuổi bé thơ,
Ghi nhớ một phần đời của con,
Cũng là một phần đời của mẹ của cha.
Mai con lớn bố sẽ dạy con chạy xe,
Từ chiếc xe đạp 3 bánh,
Đến chiếc xe đạp 2 bánh,
Bố luôn bên cạnh,
Mỗi khi con vấp ngã,
Có bố ra tay nâng đỡ.
Những chiếc xe đạp lại là kỷ niệm vô gía,
Đánh dấu con thêm được mấy tuổi đời.
Con yêu ơi,
Cứ thế bố sống theo con từng tháng, từng năm,
Khi con khỏe mạnh hay khi con đau ốm,
Bố sẽ gìa đi, và con thì khôn lớn,
Con sẽ là cây xanh vươn lên giữa trời cao.
Còn bố là cây gìa cũ hư hao,
Cây khô nhánh,
Giữa cuộc đời tất bật,
Dù con của bố có là một người thành đạt,
Hay con không may mắn,
Dù con ngoan,
Hay hư hỏng,
Bố vẫn luôn đi bên cạnh,
Để nâng đỡ và chia sẻ,
Những điều bố có thể,
Như khi các con còn là đứa bé năm xưa.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( May, 2012)

Nhung bai tho



EM KHÔNG LÀ GỖ QÚY.
Rừng không toàn gỗ qúy,
Cẩm Lai, Gụ, Giáng Hương…
Có nhiều loại cây thường,
Rừng vẫn xanh thăm thẳm.
Bao cây cao, cây thấp,
Chằng chịt những dây leo,
Quấn qúyt như tình yêu,
Thành rừng cây gắn bó.
Em không là gỗ qúy,
Hiếm hoi trong rừng xanh,
Em không là giai nhân,
Giữa rừng đời kiêu hãnh.
Như bao cây thầm lặng,
Vẫn lớn lên trong rừng,
Em, một người bình thường,
Hòa mình vào cuộc sống.
Em đến như gío lộng,
Khi lòng anh bơ vơ,
Anh ơi đừng ước mơ,
Những chuyện đời xa xỉ.
Em không là gỗ qúy,
Bằng Lăng, Sưa, Hoàng Đàn…
Ai ngậm ngải tìm Trầm,
Giữa rừng thiêng nước độc.
Vì những loại cây đẹp,
Khi gỗ đã lìa rừng,
Còn phảng phất mùi thơm,
Từ trái tim của gỗ.
Đẹp từ những vân thớ,
Những sắc màu đáng yêu,
Em một trái tim xiêu,
Vì anh là qúa đủ.
Em không là gỗ qúy,
Chắc gì đẹp cho đời ?
Nhưng chỉ với anh thôi,
Em vẫn là vô gía.
Nguyễn Thị Thanh Dương















LY RƯỢU THẤT TÌNH.
( Cảm tác từ những ly Cocktail đẹp).

Pha cho tôi một ly rượu thất tình,
Đủ mùi vị tủi hờn, chua cay nhé,
Này rượu mạnh, chút nước chanh, thêm đá,
Ly cocktail tôi uống có vơi buồn ?
Pha cho tôi một ly rượu chán chường,
Vẫn rượu mạnh, với rượu mùi cho đắng,
Thêm rượu bạc hà màu xanh cho đẹp,
Dù mất nhau tình vẫn đẹp một thời.
Rượu lạnh trên tay vừa đầy lại vơi,
Vẫn chưa đủ làm hồn tôi chếnh choáng,
Buồn riêng tôi, vũ trường đông vui lắm,
Tiếng nói cười trong tiếng nhạc điên rồ.
Pha cho tôi một ly rượu thiết tha,
Lắc thật kỹ những mùi tình thương nhớ,
Sô đa sủi bọt, nước cam, rượu đỏ,
Rót ra ly sóng sánh một biển sầu.
Tôi nhấp từng chút ly rượu khổ đau,
Để cảm nhận mùi nước cam thơm qúa,
Mùi cam ngọt ngào như tình qúa khứ,
Lát cam tươi, ly rượu đẹp. Vẫn buồn.
Hôm nay tôi tập uống rượu một mình,
Hôm qua tôi chưa bao giờ biết uống,
Tôi sợ lẻ loi khi chiều dần xuống,
Rượu sẽ thăng hoa cho những sắc màu.
Anh bạc tình mà có dễ quên đâu,
Anh hiện về theo từng ly rượu cạn,
Anh trên môi vị mật ong ngọt lịm,
Anh rượu chưa pha đốt cháy buồng tim.
Mùi vị nào, rượu nào cũng là anh,
Nồng nàn, quyến rũ và đầy cảm hứng,
Loại rượu quý ủ từ bao lâu lắm,
Tôi uống vào say đắm giữa u mê.
Pha cho tôi ly rượu buồn lê thê,
Để tang chuyện tình bằng màu Rum trắng,
Thêm rượu ngọt sao vẫn là rượu đắng ?
Giọt nước mắt tôi sẽ làm tràn ly.
Tôi sẽ uống suốt đêm nay. Không về !
Ly rượu thất tình quán khuya tê tái,
Tôi muốn say, tôi muốn quên anh đấy,
Anh sẽ chìm vào một cõi hư không.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( March, 2012)


HỘI AN CỦA ANH.
( Tặng TVL, LH )
Đã từ lâu anh không về Quảng Nam,
Nhớ phố cổ Hội An sao là nhớ,
Hình ảnh kỷ niệm buồn vui đâu đó,
Giữa cuộc đời, giữa màu sắc cuộc đời.
Sông Thu Bồn nước vẫn chảy đầy vơi,
Bao mùa khô và bao mùa mưa lũ?
Về đến hạ lưu qua thành phố cổ,
Có chậm trôi theo nhịp sống Hội An?
Anh vẫn nhớ hình bóng một người quen,
Một tà áo làm hồn anh vương vấn,
Từ thuở ấy anh vào đời lận đận,
Mà em vẫn còn quanh quẩn đời anh.
Khi người ta ở lứa tuổi xuân xanh,
Người ta yêu bằng trái tim thơ mộng,
Phố Hội An một thời anh đã sống,
Anh đã yêu chẳng biết thật hay mơ.?
Hôm nay Hội An vẫn đẹp nên thơ,
Dù vắng anh, vắng người xưa quen thuộc,
Chùa Cầu trên giòng sông Hoài thơ mộng,
Phố cổ Hội An vẫn thở với đời.
Những vách tường rêu, ngõ hẹp, xóm nghèo,
Mái ngói cũ lệch xô vì mưa gío.
Căn nhà bên sông thuyền ai qua đó,
Vạt nắng chiều buông trên sóng vỗ về.
Phố cổ Hội An có những làng nghề,
Làng rau Trà Quế xanh tươi mơn mởn,
Làng mộc Kim Bồng, Thanh Hà làng gốm…
Những nghệ nhân, những sản phẩm quê hương.
Hôm nay Hội An vẫn là của anh,
Như bao năm từng nuôi anh khôn lớn,
Mai anh về ăn Cao lầu, Mì Quảng,
Bún mắm, bánh xèo, hến trộn… mà thương.
Mà thương quê, thương cha mẹ, anh em,
Thương mối tình đầu mong manh sương khói,
Phố cổ Hội An bao năm vẫn gọi,
Nhưng người đi vẫn nợ một ngày về.
Nguyễn Thị Thanh Dương
(March, 2012)